Thủy sản - 80 năm đồng hành với ngành nông nghiệp và kinh tế biển
Trải qua 80 năm phát triển, ngành thủy sản và lực lượng Kiểm ngư đã trở thành trụ cột của kinh tế biển, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng ngành nông nghiệp. Với định hướng 'Minh bạch - Trách nhiệm - Bền vững' và sự đổi mới trong quản lý, sản xuất và hội nhập quốc tế, ngành đang hướng tới vị thế trung tâm chế biến thủy sản hàng đầu thế giới, góp phần nâng cao giá trị nông nghiệp và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Từ nghề cá truyền thống đến ngành kinh tế mũi nhọn
Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, Việt Nam có hơn 3.260km đường bờ biển, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km² cùng hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, tạo nên tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, trước thập niên 1950, nghề cá nước ta chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp, kỹ thuật còn thô sơ và được xem như nghề phụ trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Sau năm 1950, khi miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước bắt đầu chú trọng phát triển nghề cá. Năm 1959, trong chuyến thăm ngư dân Tuần Châu và Cát Bà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời căn dặn sâu sắc: “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ”, trở thành phương châm hành động trong suốt quá trình phát triển nghề cá Việt Nam.
Năm 1960, Tổng cục Thủy sản ra đời ghi dấu mốc quan trọng đưa ngành thủy sản bước vào giai đoạn phát triển có tổ chức. Dù đất nước còn chiến tranh, ngư dân và cán bộ ngành thủy sản vẫn vừa sản xuất vừa phục vụ nhiệm vụ chiến lược trên biển. Đến năm 1975, sản lượng khai thác đạt gần 100.000 tấn, 356 hợp tác xã nghề cá được thành lập, tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ sau ngày đất nước thống nhất.

Dự kiến hết năm 2025, xuất khẩu thủy sản sẽ cán đích hơn 11 tỷ USD, còn số kỷ lục của ngành. Ảnh: VASEP
Từ năm 1976 đến 1986, Bộ Hải sản rồi Bộ Thủy sản được thành lập, tạo điều kiện lãnh đạo thống nhất hoạt động của toàn ngành. Việc áp dụng cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” đã mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ, nhất là trong chế biến và xuất khẩu. Nhiều điển hình tiên tiến như Công ty Cổ phần XNK Thủy sản Hà Nội (Seaprodex), các hợp tác xã đánh cá ở Hải Phòng, Kiên Giang, Thái Bình… đã thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu. Đến năm 1986, sản lượng thủy sản đạt hơn 840.000 tấn, trong đó khai thác chiếm gần 600.000 tấn.
Bước sang giai đoạn 1987 - 1996, ngành Thủy sản triển khai chiến lược phát triển với ba mục tiêu: bảo đảm an ninh lương thực, phục vụ xuất khẩu và tạo việc làm cho người dân ven biển. Việc đẩy mạnh khai thác xa bờ, phát triển đồng bộ hậu cần nghề cá đã giúp sản lượng hải sản tăng nhanh. Nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm sú tại đồng bằng sông Cửu Long, tạo bước đột phá về giá trị xuất khẩu.
Song song với đó, năng lực chế biến ngày càng được cải thiện, hướng tới đa dạng hóa sản phẩm và đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản… Năm 1995, tổng sản lượng thủy sản đạt 1,34 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 550 triệu USD, thể hiện sự trưởng thành của ngành.
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với tiến trình hội nhập, ngành thủy sản tiếp tục bứt phá mạnh mẽ. Luật Thủy sản năm 2003 và đặc biệt là Luật Thủy sản năm 2017 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý nghề cá theo hướng hiện đại, có trách nhiệm và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045 xác định rõ mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái biển. Đây là định hướng lớn để ngành thủy sản chuyển mình mạnh mẽ, ưu tiên phát triển theo hướng bền vững và có kiểm soát.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển Thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhấn mạnh việc xây dựng ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế có quy mô lớn, thương hiệu mạnh, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đến năm 2045, mục tiêu là đưa thủy sản trở thành ngành thương mại hiện đại, một trong ba ngành kinh tế chủ lực của kinh tế biển.
Minh bạch, trách nhiệm và bền vững
Nhờ những nỗ lực đổi mới và ứng dụng khoa học công nghệ, ngành đã đạt nhiều thành tựu nổi bật. Năm 2022, sản lượng thủy sản đạt hơn 9,06 triệu tấn, gấp hơn 5 lần so với năm 1996; Việt Nam xuất khẩu thủy sản sang hơn 170 thị trường với kim ngạch gần 11 tỷ USD. Năm 2024, tổng sản lượng đạt 9,6 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm gần 6 triệu tấn, tiếp tục khẳng định xu hướng chuyển dịch từ khai thác sang nuôi trồng. Dự kiến hết năm 2025, xuất khẩu thủy sản sẽ cán đích hơn 11 tỷ USD, đây là còn số kỷ lục của ngành.
Hiện Việt Nam đứng top 3 quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, tạo sinh kế cho khoảng 4 triệu lao động trong khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá. Đời sống vật chất, tinh thần của ngư dân ngày càng cải thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển. Lực lượng Kiểm ngư được tăng cường trên cả nước, hỗ trợ ngư dân, giám sát hoạt động khai thác và phối hợp với các địa phương nhằm từng bước gỡ thẻ vàng.
Hướng tới tương lai, Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, ngành xác định nhiều nhiệm vụ mang tính chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Trước hết là giảm cường lực khai thác ven bờ, chuyển mạnh sang phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi biển và nuôi tôm; hai lĩnh vực được đánh giá có tiềm năng lớn và khả năng cạnh tranh cao.
Ngành cũng chú trọng phát triển các mặt hàng chủ lực như tôm sú, cá tra; nâng cao chất lượng giống, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, truy xuất nguồn gốc nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường khó tính. Việc tái cơ cấu sản xuất theo chuỗi liên kết, gắn kết người nuôi, doanh nghiệp và nhà phân phối sẽ được đẩy mạnh để giảm rủi ro, tăng hiệu quả kinh tế và bảo đảm minh bạch.
Đặc biệt, phát triển nghề nuôi biển được coi là hướng đi chiến lược. Mục tiêu đến năm 2030, sản lượng nuôi biển đạt 1,45 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ USD. Nuôi biển không chỉ góp phần tăng trưởng kinh tế mà còn giúp bảo vệ nguồn lợi thủy sản tự nhiên, giảm áp lực khai thác và tạo nền tảng để ngành hướng tới mô hình sinh thái - tuần hoàn.
Song song với đó, công tác đào tạo ngư dân, nâng cao năng lực quản lý nghề cá tại địa phương, đầu tư hạ tầng cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, trung tâm hậu cần nghề cá… cũng sẽ tiếp tục được quan tâm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, bảo đảm an toàn cho ngư dân và giữ vững chủ quyền biển đảo.












