Tăng cường hợp tác Halal giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ

Cơ hội hợp tác trong lĩnh vực Halal được đánh giá là một trong những hướng đi tiềm năng, bởi cả Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ đều sở hữu những lợi thế bổ sung cho nhau...

Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển thị trường Halal.

Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển thị trường Halal.

Tại hội thảo “Hợp tác Halal giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ: Thực trạng và triển vọng”, bà Đặng Thị Thu Hà, Đại sứ Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ, nhận định dù cách biệt về địa lý, hai nước có nhiều sự tương đồng về các giá trị lịch sử, văn hóa, chính sách đối ngoại, độc lập, tự chủ... Đây là cơ sở vững chắc để thúc đẩy hợp tác.

Kim ngạch thương mại song phương duy trì đà tăng trưởng hai con số, đạt hơn 2 tỷ USD (theo số liệu của Việt Nam) và hơn 3 tỷ USD (theo số liệu của Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm 2024. Trong bối cảnh ấy, ngành Halal nổi lên như một động lực kinh tế mới được ưu tiên hàng đầu.

Về phía Việt Nam, bà Hà cho biết Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định Halal là một hướng đi chiến lược: “Việt Nam coi Halal là cơ hội vàng, là định hướng mới trong hoạt động sản xuất, là nội hàm hợp tác kinh tế quan trọng, là trụ cột và động lực mới trong phát triển quan hệ với các nước, nhất là các nước có nhiều người dân theo đạo Hồi”.

Về phía Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia này đang có những bước đi mạnh mẽ để củng cố vị thế của mình, với mục tiêu đầy tham vọng là trở thành quốc gia có thị phần Halal 400 tỷ USD trong 5 năm tới. Ông Yunus Ete, Chủ tịch Hội đồng Thượng đỉnh Halal Thế giới, đã chỉ ra vai trò của Việt Nam: “Việt Nam đã nhận thức rằng chứng nhận Halal không chỉ quan trọng đối với các quốc gia Hồi giáo mà còn đối với sự đa dạng hóa xuất khẩu toàn cầu”, đồng thời ông nhấn mạnh: “Sức mạnh logistics cùng thương hiệu của Thổ Nhĩ Kỳ bổ trợ cho năng lực sản xuất của Việt Nam. Sự cộng hưởng này là chìa khóa mở ra cánh cửa hợp tác sâu rộng trên quy mô thị trường toàn cầu vượt 2.500 tỷ USD".

KHAI THÁC LỢI THẾ BỔ SUNG

Thị trường Halal toàn cầu với hơn 2,2 tỷ người tiêu dùng vào năm 2025 mang lại cơ hội vô tận cho sự hợp tác, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn và logistics.

Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nguồn cung nông sản và thủy sản chất lượng cao, vốn là những mặt hàng được các nước thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) nhập khẩu nhiều nhất. Theo ông Lê Hoàng Tài, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, Việt Nam đang dần khẳng định “năng lực cung cấp sản phẩm Halal, đặc biệt là trong các lĩnh vực thực phẩm chế biến, nông sản, đồ uống, dịch vụ du lịch và logistics”.

Các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam như cà phê, gạo, hạt điều, hạt tiêu, quế, hồi và gia vị là những sản phẩm được ưa chuộng. Chia sẻ kinh nghiệm thực tế, ông Trần Việt Hùng, Trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần VinaMex, cho rằng Việt Nam hiện có rất nhiều lợi thế cạnh tranh, vì là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản lớn.

Sản phẩm quế, hồi Việt Nam được ưa chuộng tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Sản phẩm quế, hồi Việt Nam được ưa chuộng tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu là các sản phẩm hạt tiêu, hạt điều và quế, hồi. Trong tất cả các sản phẩm này, sản phẩm hạt điều đang hiện tại là mặt hàng chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong các sản phẩm nông sản xuất khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, Thổ Nhĩ Kỳ cũng là một trong 10 quốc gia nhập khẩu hạt điều lớn nhất từ Việt Nam, trong tổng số khoảng 70 nước nhập khẩu hạt điều từ Việt Nam.

Thổ Nhĩ Kỳ với vị trí địa lý độc đáo, đóng vai trò là trung tâm logistics và cửa ngõ phân phối lý tưởng để hàng hóa Việt Nam tiếp cận các thị trường Trung Đông, Châu Âu và Bắc Phi.

Sự hợp tác này không chỉ dừng lại ở thương mại truyền thống. Ông Reha Demirel, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ - Việt Nam, cho rằng hai nước có cơ hội phát triển hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác ngoài thực phẩm như: năng lượng, quốc phòng, xây dựng, du lịch và công nghệ. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng gấp đôi trong 4 năm (từ gần 1 tỷ USD năm 2020 lên xấp xỉ 2 tỷ USD năm 2024), và động lực Halal sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để đạt mục tiêu 4 tỷ USD trong khoảng 5 năm tới.

THÁCH THỨC TIÊU CHUẨN

Tuy nhiên, việc đạt được chứng nhận Halal quốc tế, đặc biệt là theo yêu cầu của Thổ Nhĩ Kỳ, đòi hỏi quy trình nghiêm ngặt và tốn kém. Ông Zafer Yalu, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Cơ quan Chứng nhận Halal Thổ Nhĩ Kỳ (HAK), cho biết HAK hoạt động dựa trên tiêu chuẩn Halal của OIC/SMIIC (Viện Tiêu chuẩn và Đo lường các Quốc gia Hồi giáo).

“Kể từ tháng 6/2023, chứng nhận Halal đã trở nên bắt buộc đối với việc chứng nhận tất cả các sản phẩm và dịch vụ được công nhận Halal trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ”, ông Zafer Yalu nhấn mạnh.

Tổng Thư ký Viện Tiêu chuẩn và Đo lường các Quốc gia Hồi giáo (OIC/SMIIC), ông İhsan Övüt chỉ ra rằng sự khác biệt giữa các hoạt động tiêu chuẩn hóa giữa các quốc gia được coi là “rào cản kỹ thuật gián tiếp đối với thương mại”.

Ngoài ra, sự cách biệt địa lý và những biến động địa chính trị đã ảnh hưởng lớn đến chi phí và thời gian vận tải. Ông Trần Việt Hùng phản ánh căng thẳng leo thang gần đây đã khiến chi phí vận tải đường biển tăng và tuyến đường phải thay đổi, làm tăng thời gian hành trình.

Việc đạt được chứng nhận Halal quốc tế như của Thổ Nhĩ Kỳ đòi hỏi quy trình nghiêm ngặt và chi phí cao, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù tổ chức chứng nhận Halal của Thổ Nhĩ Kỳ đã có công nhận chứng nhận của các tổ chức Halal quốc tế, nhưng trên thực tế, theo kinh nghiệm của doanh nghiệp, vẫn có một số doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu đơn vị xuất khẩu phải có chứng chỉ Halal được cấp bởi tổ chức chứng nhận của Thổ Nhĩ Kỳ thì mới có thể nhập khẩu.

Ngoài ra, Việt Nam phải cạnh tranh với các quốc gia Hồi giáo có hệ sinh thái Halal phát triển mạnh mẽ như Malaysia và Indonesia, đòi hỏi phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng chế biến Halal và đào tạo nguồn nhân lực.

ĐỀ XUẤT THÀNH LẬP NHÓM CÔNG TÁC CHUNG VỀ HỢP TÁC HALAL

Để vượt qua những thách thức, cần có các giải pháp đồng bộ, theo ông Hùng, các doanh nghiệp Việt Nam nên đầu tư vào chứng nhận Halal quốc tế bằng cách hợp tác với các tổ chức chứng nhận uy tín để đạt được chứng nhận Halal phù hợp với các yêu cầu của Thổ Nhĩ Kỳ.

Cần xây dựng chuỗi cung ứng Halal khép kín từ sản xuất, chế biến đến phân phối để đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn Halal, đồng thời nâng cao uy tín và chất lượng sản phẩm. Phát triển sản phẩm Halal phù hợp với xu hướng của người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm Halal hữu cơ, thuần chay và không chứa chất dị ứng.

“Chính phủ cần sớm đàm phán Hiệp định Thương mại tự do tạo cơ sở, tạo nền móng cho các doanh nghiệp có bàn đạp để đi vào thị trường này một cách thuận lợi”, ông Hùng kiến nghị.

Bà Bá Thị Nguyệt Thu, Nhà sáng lập Hợp tác xã Hà Nội Xanh, đề xuất các cơ quan chức năng cần thành lập Nhóm Công tác Chung Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ về hợp tác Halal và Ký kết Bản ghi nhớ (MOU) hợp tác về Halal. Đồng thời cần thống nhất tiêu chuẩn, thiết lập cơ chế công nhận lẫn nhau giữa tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ, dựa trên các tiêu chuẩn OIC/SMIIC.

Ông Zafer Yalu bày tỏ thiện chí: “Chúng tôi mong muốn chia sẻ hợp tác và kinh nghiệm của chúng tôi với các tổ chức liên quan tại Việt Nam về cơ sở hạ tầng chất lượng Halal. Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động đầu tư vào chứng nhận quốc tế uy tín”.

Ông Lê Hoàng Tài tin tưởng rằng thông qua kết nối doanh nghiệp, hai bên sẽ tìm được ra những mô hình hợp tác hiệu quả từ liên kết chuỗi cung ứng đến liên doanh sản xuất, từ thương mại hàng hóa đến dịch vụ Halal.

Vũ Khuê

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/tang-cuong-hop-tac-halal-giua-viet-nam-va-tho-nhi-ky.htm