Chính nguyện, không phải là lý tưởng lớn lao, mà là ánh sáng nhỏ dẫn ta đi trong đêm dài. Một người có chính nguyện, không bao giờ là người hoang phí cuộc đời mình.
Tiến trình giảng dạy của ba Kinh Tịnh độ là một hệ thống rõ ràng, từ phát nguyện, đến đối tượng tiếp độ và cuối cùng là phương pháp thực hành. Tất cả đều quy về Danh hiệu Phật A Di Đà như trục xoay trung tâm.
Sự dung thông của ba bộ Kinh Tịnh Độ không chỉ giúp người tu hành có cái nhìn toàn diện, mà còn cho thấy tính thâm sâu, rộng lớn và đơn giản mà hiệu quả của pháp môn này.
Ở Việt Nam, đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong Cựu tạp thí dụ kinh. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong Lục độ tập kinh do Khương Tãng Hội dịch sang chữ Hán.
Giáo pháp Tịnh Độ không chỉ mang tính lý tưởng mà còn thiết thực, hướng dẫn chúng sinh vượt qua khổ đau bằng một phương tiện dễ dàng và hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh thời đại đầy biến động.
Pháp môn Tịnh độ mang lại niềm hy vọng và sự giải thoát dễ dàng cho tất cả chúng sinh. Niệm Phật không chỉ là phương tiện kết nối với Đức Phật A Di Đà mà còn là con đường thẳng tới cõi Cực lạc.
Pháp môn niệm Phật đã trở thành điểm tựa tinh thần hết sức quan trọng cho những hành giả tu hành hướng về sự giác ngộ và những con người trong 'thời khắc sinh tử' được tiếp dẫn bằng những 'tia sáng nhiệm màu' của đức Phật
Khi chúng ta được vãng sinh ở cõi Cực Lạc thì chúng ta đã thoát khỏi vòng luân hồi sinh-tử. Chúng ta không còn là những chúng sinh phàm phu nữa. Chúng ta là những 'Bất thoái chuyển' (Avaivartika).
Có thể nói tư tưởng Tịnh độ vốn dĩ thể hiện tinh thần khát khao thoát khổ, được sống trong đời thanh tịnh của con người. Ý niệm này gần như xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, mạnh mẽ tới mức dần dần phát triển thành hệ thống tín ngưỡng
Pháp môn Tịnh độ y cứ vào ba bộ kinh: 'Vô lượng thọ, A Di Đà và Quán Vô lượng thọ kinh'; Tại Nhật được ngài Pháp Nhiên triển khai rộng rãi, gọi là Liên tông. Một số Thiền sư Trung Hoa cuối đời cũng chấp nhận pháp môn Tịnh độ.
Nói đến tịnh độ, chúng ta có tịnh độ tam kinh, tịnh độ ngũ kinh và xa hơn nữa, đạo tràng chúng ta tu tịnh độ Pháp hoa. Tịnh độ là chung nhưng tùy người thực tập mà có khác nhau như vậy.
Với người Việt thì Phật giáo Bắc truyền có ảnh hưởng lớn nhất. Đa phần Phật tử Việt đều biết đến danh hiệu Phật A Di Đà và pháp môn Tịnh độ, nhiều người không phải Phật tử cũng biết và nói đến bốn chữ A Di Đà Phật.