Sau 1 năm vận hành, siêu cống Cái Lớn - Cái Bé đạt hiệu quả thế nào?
Từ khi được đưa vào vận hành, siêu công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé (tỉnh Kiên Giang) đã mang lại hiệu quả tích cực trọng việc điều tiết nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất ở ĐBSCL. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những bất cập cần sớm được khắc phục.
Nhiều lợi ích
Theo tìm hiểu của Một Thế Giới, dự án cống Cái Lớn - Cái Bé được triển khai tại huyện Châu Thành (Kiên Giang) do Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN-PTNT) làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí xây dựng hơn 3.300 tỉ đồng. Trong đó, cống Cái Lớn có tổng chiều rộng thông nước là 455m, gồm 11 khoang, mỗi khoang rộng 40m và khoang âu thuyền rộng 15m. Cống Cái Bé tổng chiều rộng thông nước 85m, gồm 2 khoang, mỗi khoang rộng 35m và 1 khoang âu thuyền rộng 15m.
Tháng 1.2022, công trình đã được bàn giao cho Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam vận hành thử nghiệm. Khi đó, hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé đề ra mục tiêu góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn-ngọt của các huyện An Minh, An Biên (Kiên Giang) với những năm mưa ít, và tiêu thoát nước cho vùng dự án trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Ngoài ra cống còn có nhiệm vụ kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp và giảm thiệt hại do hạn mặn vào mùa khô cho các mô hình sản xuất trong vùng.
Mục tiêu của dự án này là kiểm soát được nguồn nước mặn, lợ và ngọt để tạo điều kiện sản xuất ổn định đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái ngọt, mặn - lợ, ngọt - lợ luân phiên cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên 384.120ha của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản là 346.24ha.
Một nông dân ở huyện Vĩnh Thuận cho biết: “Từ khi đưa vào vận hành, cống Cái Lớn - Cái Bé đã giúp việc kiểm soát nguồn nước phục vụ sản xuất trở nên linh hoạt, kịp thời hơn. Không còn tình trạng thừa hay thiếu nước phục vụ sản xuất, nuôi trồng thủy sản”.
Theo ông, vào những tháng mùa khô trước đó, tình trạng thiếu nước sản xuất thường xuyên xảy ra, bà con nông dân không chủ động được nên gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất nông nghiệp. “Khoảng 1 năm trở lại đây, nhờ chủ động được nguồn nước nên việc sản xuất rất thuận lợi, trúng mùa liên tục, đời sống của người dân cũng ổn định hơn trước”, ông phấn khởi.
Từ mùa khô năm 2021-2022 đến nay, khu vực thượng nguồn cống Cái Lớn - Cái Bé không phải đắp đập tạm để kiểm soát mặn như những năm trước đó. Chính vì vậy, tỉnh đã tiết kiệm được hàng chục tỉ đồng, vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa không ảnh hưởng đến giao thông thủy do việc đắp đập tạm.
Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang xác định, từ khi đưa vào vận hành cống Cái Lớn - Cái Bé đến nay, các mô hình sản xuất độc canh trong vùng hưởng lợi của dự án đã phát huy hiệu quả. Vùng nuôi tôm nước lợ ở các huyện An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận và Gò Quao, theo dự kiến thả nuôi trên diện tích khoảng 67.370ha. Diện tích tôm càng xanh thả nuôi ghép trong các mô hình nuôi tôm nước lợ dự kiến đạt khoảng 36.500ha.
Còn không ít bất cập
Bên cạnh những thuận lợi đã mang lại thì siêu công trình cống Cái Lớn - Cái Bé vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cần sớm được tháo gỡ để phát huy toàn diện thế mạnh của siêu cống đúng với mục tiêu đề ra.
Ông Lê Hữu Toàn, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang cho biết tỉnh Kiên Giang có 247.000ha nằm trong vùng dự án cống Cái Lớn - Cái Bé, chiếm khoảng 64% diện tích vùng hưởng lợi. Sau một năm vận hành thử nghiệm công trình cống Cái Lớn - Cái Bé, thời vụ sản xuất của các địa phương nằm trong vùng dự án hiện địa phương chưa ghi nhận những thay đổi đáng kể về cơ cấu cây trồng, vật nuôi kể từ sau khi công trình được đưa vào vận hành thử nghiệm.
Theo đại diện Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam, đơn vị vận hành dự án Cái Lớn - Cái Bé đánh giá, qua thời gian vận hành từ đầu năm 2022 đến nay, các mục tiêu của dự án cơ bản đã được đáp ứng. Song, bên cạnh các kết quả tích cực đạt được thì việc vận hành dự án Cái Lớn - Cái Bé đã làm trầm trọng hơn tình hình ngập ở vùng hạ lưu dự án (khu vực từ cống ra cửa biển tây). Hiện đơn vị này đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để trao đổi, thống nhất kế hoạch vận hành.
Trong quá trình vận hành, Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam đã làm việc với các địa phương và nhận thấy còn một số mâu thuẫn về nhu cầu ngọt - mặn đối với các địa phương liên quan đến 2 hệ thống là Cái Lớn - Cái Bé và khu vực tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp thuộc các huyện Long Mỹ (Hậu Giang), Hồng Dân (Bạc Liêu) và Gò Quao (Kiên Giang).
Nguyên do nhu cầu nước vào mùa khô hằng năm giữa các địa phương là không đồng nhất, ví như ở các huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) và Gò Quao (Kiên Giang) thì cần mặn, ngược lại ở huyện Long Mỹ (Hậu Giang) lại cần ngọt. Đó là vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc vận hành các công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé.
Theo Phó cục trưởng Cục Trồng trọt Lê Thanh Tùng, trong nhiều năm qua, các công trình đã được chú trọng đầu tư để ứng phó biến đổi khí hậu. Đây là biện pháp cho thấy mức độ hiệu quả của nó rất nhanh và có giá trị tức thời để phục vụ cho sản xuất.
Ở góc độ sinh kế lâu dài, ông Tùng chỉ ra rằng, khi xây dựng một công trình, phải nghĩ đến giải pháp phi công trình, tức là phải tập trung cho việc thích ứng với sự thay đổi khi có công trình.
Riêng đối với lĩnh vực trồng trọt, khi ngăn mặn vào vùng sản xuất của cây trồng, vùng đó cũng không có nước, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Do đó, chúng ta phải xem lại thời gian ngăn mặn để có thời gian bố trí mùa vụ, thậm chí cây trồng như thế nào cho phù hợp.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá cống Cái Lớn - Cái Bé đã vận hành nhưng trong vùng dự án là cả một hệ thống sản xuất đan xen nhau nên cần phải có sự tính toán, thống nhất.
Để cống Cái Lớn - Cái Bé phát huy hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ đề ra, Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang đã kiến nghị Bộ NN-PTNT xem xét đầu tư xây dựng 10 cống từ cống Xẻo Rô đến đê biển tây, tức là phía hạ lưu sông Cái Lớn để kiểm soát mặn. Theo đề xuất, tổng mức đầu tư 10 cống nói trên là 900 tỉ đồng.
Ngoài ra, sở còn kiến nghị Bộ NN-PTNT chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng cải tạo, nâng cấp công âu thuyền Tắc Thủ và các cống trên tuyến đê biển tây thuộc tỉnh Cà Mau, để hoàn chỉnh, khép kín toàn tuyến đê biển tây Kiên Giang - Cà Mau.
Tỉnh Kiên Giang cũng kiến nghị Bộ NN-PTNT tiếp tục hỗ trợ triển khai nhân rộng 5 mô hình thí điểm đạt hiệu quả cao như: mô hình tôm - lúa ở huyện U Minh Thượng và huyện Gò Quao, mô hình cây ăn trái ở các huyện Giồng Riềng, Gò Quao và U Minh Thượng, mô hình khóm - cau - dừa ở huyện Châu Thành, mô hình khóm - tôm ở huyện Gò Quao và mô hình cánh đồng mẫu lớn ở các huyện Giồng Riềng, An Biên.
Những địa phương trong vùng hưởng lợi của dự án cống Cái Lớn - Cái Bé như Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau đều mong muốn Bộ NN-PTNT giao đơn vị chức năng phối hợp với Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam ban hành quy chế phối hợp, quy trình vận hành chính thức đối với cống Cái Lớn - Cái Bé trong thời gian tới; đồng thời giao đơn vị chức năng tiếp tục theo dõi, để có những đề xuất điều chỉnh phù hợp.