Quy hoạch đô thị hướng đến liên kết vùng và phát triển bền vững
Theo ý kiến chuyên gia, để xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị cần chuyển từ tư duy 'quy hoạch cho từng đô thị' sang 'quy hoạch cho hệ thống đô thị', bảo đảm tính liên kết vùng, tính mở cùng khả năng thích ứng trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng…

Ảnh minh họa.
Vụ Quy hoạch Kiến trúc, Bộ Xây dựng vừa chủ trì phối hợp cùng Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam tổ chức hội thảo chuyên đề “Quy hoạch và quản trị đô thị hiện đại nâng cao chất lượng sống đô thị Việt Nam”, nhằm làm rõ thực trạng và thách thức đặt ra trong quá trình đô thị hóa, dù đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng còn không ít khó khăn cần vượt qua.
HỆ THỐNG ĐÔ THỊ NGÀY CÀNG MỞ RỘNG
Phát biểu khai mạc hội thảo, Vụ trưởng Vụ Quy hoạch kiến trúc Trần Thu Hằng cho biết những năm gần đây, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng, mang lại những thay đổi sâu sắc đối với diện mạo đất nước. Hệ thống đô thị ngày càng mở rộng, đa dạng về quy mô và chức năng, trở thành động lực quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, là nơi hội tụ của tri thức, sáng tạo, công nghệ và đổi mới.
Ông Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, cũng chia sẻ rằng sau gần bốn thập kỷ đổi mới, phát triển và hội nhập, hệ thống đô thị Việt Nam đã đạt được các thành tựu đáng ghi nhận. Cả nước hiện có hơn 900 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 44%, đóng góp khoảng 75% GDP quốc gia. Nhiều đô thị trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, dịch vụ, tài chính và khoa học công nghệ, trung tâm công nghiệp, và đầu mối giao thông quan trọng.
Tuy nhiên, sự phát triển vẫn thiếu đồng bộ giữa các vùng, hạ tầng kỹ thuật xã hội còn chênh lệch; không gian đô thị bị chia cắt, thiếu bản sắc; chất lượng môi trường và nhà ở giảm sút… trong khi công tác quy hoạch và quản trị chưa theo kịp yêu cầu chuyển đổi số và thích ứng biến đổi khí hậu.
Vì vậy, theo lãnh đạo Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, để xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị, cần chuyển từ tư duy “quy hoạch cho từng đô thị” sang “quy hoạch cho hệ thống đô thị”, bảo đảm tính liên kết vùng, tính mở cùng khả năng thích ứng trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, và chuyển đổi năng lượng. Đây là tư duy đột phá, trọng tâm, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho sự phát triển đô thị từ quy hoạch, xây dựng, hạ tầng đến quản trị, văn hóa và đời sống đô thị.
“Quy hoạch phải được định hướng bởi tầm nhìn dài hạn, dựa trên cơ sở khoa học, dữ liệu và mô hình dự báo, hướng tới phát triển xanh, thông minh, có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, đồng thời khơi dậy bản sắc và giá trị văn hóa của từng địa phương. Việc xây dựng hệ thống quy hoạch đồng bộ, thống nhất giữa các cấp, các ngành, các vùng lãnh thổ là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính hiệu quả, tính liên kết và khả năng thích ứng của đô thị.
Một hệ thống quy hoạch đồng bộ không chỉ thể hiện sự thống nhất giữa quy hoạch không gian, hạ tầng, đất đai, giao thông và môi trường, mà còn tích hợp đa chiều giữa quy hoạch đô thị với quy hoạch vùng, quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch hạ tầng xanh, hạ tầng số. Đây chính là nền tảng quản lý phát triển không gian đô thị, là công cụ chiến lược để kết nối các lĩnh vực, cấp độ, chủ thể phát triển trong một tầm nhìn thống nhất”, ông Chính nhấn mạnh.
TẬN DỤNG CÁC KHUÔN KHỔ TOÀN CẦU
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong phát triển các đô thị, bà Boni Elena, Điều phối viên về phát triển đô thị và quản lý tri thức khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UN-Habitat, cho rằng Việt Nam nên tận dụng các khuôn khổ toàn cầu như: Chương trình Nghị sự 2030, Chương trình nghị sự đô thị mới và Chiến lược UN-Habitat giai đoạn 2026-2029 để thúc đẩy phát triển đô thị bao trùm, bền vững và tăng khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu.
Bà cũng nhấn mạnh đến vai trò của các sáng kiến khu vực như: Mạng lưới Thành phố Thông minh ASEAN hay Chiến lược Đô thị hóa Bền vững ASEAN. Đồng thời, khuyến nghị Việt Nam xây dựng nền tảng giám sát mục tiêu phát triển bền vững và áp dụng mô hình báo cáo tự nguyện cấp địa phương, nhằm tăng tính minh bạch và kết nối chính sách giữa trung ương và địa phương.
Trong khi đó, ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và thể thao Thành phố Huế, nêu quan điểm phát triển đô thị không thể tách rời công tác bảo tồn di sản. Ông cho biết nhiều năm qua, Huế được biết đến như một “thành phố di sản”, nơi hội tụ di sản vật thể, phi vật thể và cảnh quan sinh thái đặc sắc. Song, quá trình đô thị hóa nhanh đã tạo ra áp lực lớn đối với công tác bảo tồn, bởi nhu cầu nhà ở và hạ tầng hiện đại có nguy cơ làm biến dạng không gian di sản.
“Để giải quyết hài hòa các vấn đề này, Huế xác định bảo tồn phải gắn liền với phát triển, quy hoạch đô thị phải đặt di sản và cộng đồng vào trung tâm, cùng lúc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số như: GIS, 3D, AI trong quản lý, quảng bá và phát huy giá trị di sản, phát triển công nghiệp văn hóa và sáng tạo từ chính các giá trị bản địa”, ông Phan Thanh Hải thông tin.
Bên cạnh đó, các chuyên gia nhận định chủ trương tinh gọn bộ máy hành chính sẽ giúp tập trung nguồn lực đầu tư, song cũng đòi hỏi chính quyền đô thị phải xác định đúng định hướng quy hoạch, kiểm soát chặt sự phân bố dân cư, hướng tới phát triển bền vững trên cả ba trụ cột: kinh tế, môi trường và xã hội.
Theo ông Trương Văn Quảng, Phó Tổng thư ký Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang mở ra cơ hội tái định hình không gian lãnh thổ, nhưng cũng đặt ra yêu cầu điều chỉnh hệ thống quy hoạch phù hợp. Vì vậy, quy hoạch đô thị cần đảm bảo tính tích hợp, liên kết vùng, phân cấp rõ ràng và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số như GIS, BIM, 3D để nâng cao hiệu quả quản lý.












