Quốc hội thông qua Luật Tương trợ tư pháp về hình sự
Quốc hội thông qua Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, quy định VKSND tối cao là cơ quan đầu mối.
Sáng 26/11, Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và biểu quyết thông qua Luật Tương trợ tư pháp về hình sự với 426/427 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 89,87%),
BỔ SUNG QUY ĐỊNH XEM XÉT YÊU CẦU LIÊN QUAN ĐẾN HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Theo đó, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự.

Cơ quan này có trách nhiệm làm đầu mối trao đổi thông tin, tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự; từ chối hoặc hoãn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự theo thẩm quyền; phối hợp với các cơ quan có liên quan xem xét, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự; đề xuất việc ký kết, gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về hình sự và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Luật quy định 10 hình thức tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài, bao gồm: Tống đạt, giao, gửi văn bản tố tụng; Khám xét, thu giữ; Tịch thu, trả lại, xử lý vật chứng, tài sản; Tổ chức cho người ở nước được yêu cầu sang nước yêu cầu để hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ; Tổ chức cho người có thẩm quyền ở nước yêu cầu sang nước được yêu cầu để có mặt trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự; Chuyển giao tạm thời người đang bị tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù ở nước được yêu cầu sang nước yêu cầu để hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ; Lấy lời khai trực tiếp, trực tuyến và các hình thức thu thập, cung cấp chứng cứ khác; Chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự; Trao đổi thông tin và các hình thức tương trợ khác.
Dự án Luật quy định rõ các trường hợp yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài bị từ chối, bao gồm trường hợp liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam; liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Ngoài ra trường hợp có căn cứ cho rằng yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự một người vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, nguồn gốc dân tộc, quan điểm chính trị của người đó hoặc vì những lý do này mà người đó có thể bị đối xử không công bằng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự cũng bị từ chối yêu cầu tương trợ tư pháp.
Đáng chú ý, dự án Luật đã bổ sung quy định xem xét yêu cầu liên quan đến hình phạt tử hình. Theo đó, trường hợp nước ngoài yêu cầu Việt Nam không áp dụng hình phạt tử hình hoặc không thi hành án tử hình để thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan để đưa ra thông báo.
Trường hợp Việt Nam yêu cầu nước ngoài không áp dụng hình phạt tử hình hoặc không thi hành án tử hình để thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị nước ngoài đưa ra cam kết bằng văn bản về nội dung này.
TIẾP THU Ý KIẾN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI ĐỂ HOÀN THIỆN LUẬT
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cũng đã có báo cáo nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý đối với 04 vấn đề lớn liên quan đến Luật này.

Về nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 5): Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc bảo vệ quyền con người vào Điều 5 của dự thảo Luật.
UBTVQH cho rằng, Tương trợ tư pháp về hình sự là việc các quốc gia hỗ trợ nhau trong việc giải quyết vụ án hình sự, do đó cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, còn phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại BLTTHS. BLTTHS hiện hành đã dành riêng một chương (Chương II) quy định về những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự với 27 nguyên tắc, trong đó “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và lợi ich hợp pháp của cá nhân” chỉ là 1 trong 27 nguyên tắc của tố tụng hình sự.
Nếu chỉ bổ sung nguyên tắc nêu trên vào Điều 5 sẽ dẫn đến thiếu nhiều nguyên tắc quan trọng khác đã được quy định trong BLTTHS (như: nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội ...). Do đó, cách quy định như Điều 5 của dự thảo Luật, trong đó có nội dung hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam... đã bảo đảm bao quát đầy đủ các nguyên tắc tương trợ tư pháp về hình sự, trong đó có nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân như ý kiến ĐBQH nêu.
Về bảo đảm an toàn (Điều 11): Có ý kiến đề nghị quy định điểm a khoản 1 theo hướng “người đó sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị bắt giữ, bị tạm giam, tạm giữ hay áp dụng bắt kỳ biện pháp cưỡng chế nào khác trái với nội dung cam kết trước khi rời khỏi nước được yêu cầu” để bảo đảm chặt chẽ, đầy đủ. UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của ĐBQH và đã chỉnh lý phù hợp tại các điều 11, 35 và 37 của dự thảo Luật.
Về giao nhận tài liệu, vật chứng, tài sản liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 13): Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc có đi có lại trong việc giao nhận tài liệu, vật chứng, tài sản tại khoản 2 Điều này.
UBTVQH cho biết, Dự thảo Luật đã dành riêng một điều (Điều 7) để quy định về áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong tương trợ tư pháp về hình sự; do đó, xin phép không quy định lại nguyên tắc này trong từng điều luật cụ thể.
Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 18): Có ý kiến đề nghị quy định hằng năm Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao xây dựng báo cáo tình hình thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp, xây dụng bảo cáo trình Quốc hội.
UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của ĐBQH và đã chỉnh lý phù hợp tại khoản Điều 18 của dự thảo Luật.












