PGS.TS Bùi Hoài Sơn: 'Cần có quỹ quốc gia về số hóa di sản văn hóa'
Văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số đang đứng trước cơ hội vàng, vấn đề là chúng ta có biết tận dụng, định hướng và đầu tư bài bản để biến cơ hội ấy thành 'sức mạnh mềm' quốc gia hay không.
Nhân dịp 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa, PLO đã trao đổi với PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội để nghe lắng nghe chia sẻ của ông về câu chuyện lan tỏa văn hóa trong thời đại số.
Văn hóa Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng
. Phóng viên: Thời gian gần đây, sự nở rộ của KOL đã góp phần quảng bá văn hóa và lan tỏa tinh thần yêu nước, đặc biệt trong các dịp đại lễ. Ông đánh giá như thế nào về vai trò này?
+ PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Các KOL ngày nay đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá văn hóa và lan tỏa tinh thần yêu nước, đặc biệt qua mạng xã hội. Với sức ảnh hưởng lớn, họ trở thành những “người dẫn chuyện” mới, giúp văn hóa dân tộc đến gần hơn với giới trẻ bằng ngôn ngữ gần gũi, tự nhiên. Đây là bước chuyển tích cực so với các kênh truyền thống trước đây, giúp văn hóa lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng.
Tuy nhiên, đi kèm cơ hội là trách nhiệm. Nếu thiếu hiểu biết và định hướng, KOL có thể truyền tải sai lệch, làm giảm giá trị văn hóa. Vì vậy, đồng hành, định hướng để KOL trở thành những “sứ giả văn hóa” đúng nghĩa. Nói cách khác, KOL là cầu nối mới của văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số nếu được dẫn dắt đúng, họ sẽ trở thành một lực lượng quan trọng trong việc khẳng định sức mạnh mềm của dân tộc.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội. Ảnh: VĂN HÀ
. Ông nhìn nhận việc lan tỏa văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số hiện nay là đang phát huy điểm mạnh, bộc lộ điểm yếu hay còn vướng những điểm nghẽn nào?
+ Việc lan tỏa văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số hiện nay đang đứng giữa ba chiều: Điểm mạnh, điểm yếu và điểm nghẽn. Công nghệ số bùng nổ mở ra nhiều kênh truyền thông mới giúp văn hóa Việt tiếp cận công chúng rộng khắp, vượt biên giới.
Các yếu tố văn hóa như điệu nhảy, bài hát, hình ảnh truyền thống văn hóa dễ dàng trở thành hiện tượng toàn cầu nhờ sáng tạo của giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta chưa có chiến lược mạnh để tận dụng lợi thế này. Các hoạt động quảng bá phần lớn vẫn tự phát, thiếu đầu tư bài bản.
Trong khi đó, Hàn Quốc, Trung Quốc đã xây dựng chính sách số hóa văn hóa quy mô, phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và nghệ sĩ. Việt Nam lại đang vướng điểm nghẽn về chính sách, bản quyền, và nguồn lực đầu tư còn phân tán.
Văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số đang đứng trước một cơ hội vàng, nhưng nếu không sớm tháo gỡ điểm nghẽn và khắc phục điểm yếu, chúng ta có thể đánh mất lợi thế trong cuộc cạnh tranh toàn cầu về "sức mạnh mềm".
Cạnh đó là vấn đề về bản quyền, sau đó là sự lấn át của văn hóa ngoại nhập từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ… có nguy cơ khiến thế hệ trẻ xa rời giá trị cội nguồn nếu thiếu chiến lược bảo tồn và làm mới.
Thêm vào đó, tin giả và thông tin sai lệch về di sản, lễ hội, nhân vật lịch sử xuất hiện tràn lan trên mạng xã hội, làm sai lệch nhận thức, gây hiểu lầm về văn hóa dân tộc.
Cuối cùng, sự thương mại hóa thiếu kiểm soát khiến văn hóa truyền thống bị giản lược, biến thành nội dung giải trí nhanh, làm mất đi chiều sâu và hồn cốt. Do đó, cần bảo hộ bản quyền chặt chẽ, đổi mới cách tiếp cận di sản, kiểm soát truyền thông số và nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị văn hóa dân tộc.
. Có ý kiến cho rằng việc "số hóa di sản văn hóa" có thể dẫn đến sự thương mại hóa quá mức hoặc mất đi bản sắc, ông nhận định như thế nào về điều này?
+ Số hóa di sản văn hóa mang lại cơ hội lớn trong việc đưa di sản đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Tuy nhiên, nếu quá chạy theo yếu tố giải trí và xu hướng ngoại lai, văn hóa truyền thống có nguy cơ bị thương mại hóa, giản lược, làm phai nhạt bản sắc.
Tuy nhiên, tôi cho rằng số hóa không phải là "thủ phạm", mà ở cách chúng ta sử dụng nó. Nếu có chiến lược phù hợp, vừa sáng tạo theo ngôn ngữ hiện đại, vừa giữ gìn giá trị gốc thì số hóa sẽ trở thành công cụ mạnh mẽ để bảo tồn và lan tỏa văn hóa Việt trên toàn cầu.
Cánh cửa rộng mở quảng bá văn hóa Việt
. Theo ông công nghệ và truyền thông số mang đến cơ hội gì cho việc quảng bá văn hóa Việt ra thế giới?
Công nghệ và truyền thông số đang mở ra cơ hội chưa từng có cho việc bảo tồn và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Di sản có thể được lưu giữ bền vững qua số hóa, trở thành kho tư liệu quý cho thế hệ sau; đồng thời, lễ hội hay di tích dù ở nơi xa xôi vẫn đến được với hàng triệu người qua thiết bị số. Không chỉ lưu giữ, công nghệ còn khơi dậy sáng tạo – từ thực tế ảo, game, phim hoạt hình… – giúp di sản truyền thống trở nên sống động, gần gũi với giới trẻ.
Ở chiều lan tỏa, truyền thông số xóa nhòa khoảng cách địa lý, giúp các tiết mục dân gian hay sản phẩm sáng tạo mang bản sắc Việt dễ dàng tiếp cận công chúng toàn cầu. Nó cũng mở ra cách kể chuyện mới mẻ, đồng thời trao cho mỗi công dân cơ hội trở thành một “đại sứ văn hóa” qua mạng xã hội.
Tóm lại, đây là cánh cửa rộng mở để Việt Nam quảng bá hình ảnh đất nước, con người và bản sắc. Vấn đề còn lại là chúng ta có biết tận dụng, định hướng và đầu tư bài bản để biến cơ hội này thành sức mạnh mềm quốc gia – để văn hóa Việt vừa được bảo tồn nguyên vẹn, vừa lan tỏa mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.
Truyền thông số mở ra cơ hội chưa từng có để quảng bá văn hóa Việt ra thế giới. Chỉ với một nền tảng trực tuyến, sản phẩm văn hóa có thể tiếp cận hàng triệu người, vượt qua mọi khoảng cách địa lý. Những tiết mục dân gian hay sáng tạo đậm bản sắc Việt vì thế dễ dàng lan tỏa toàn cầu.
Không chỉ vậy, truyền thông số còn đem lại cách kể chuyện mới mẻ, gần gũi với giới trẻ, đồng thời trao cho mỗi công dân cơ hội trở thành một “sứ giả văn hóa” qua mạng xã hội. Tóm lại, đây là cánh cửa rộng mở để Việt Nam quảng bá hình ảnh đất nước và con người. Vấn đề là chúng ta có biết tận dụng, định hướng và đầu tư bài bản để biến cơ hội ấy thành sức mạnh mềm của quốc gia hay không.
Cần có quỹ quốc gia về số hóa di sản văn hóa
. Nhiều ý kiến cho rằng việc đầu tư vào công nghệ và cơ chế tài chính cho việc số hóa di sản văn hóa còn khá phân mảnh và hạn chế. Ông có góp ý ra sao để có thể giải quyết bài toán này?
+ Hiện nay, cơ chế tài chính cho số hóa di sản văn hóa ở Việt Nam vẫn phân mảnh, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước với mức đầu tư hạn chế. Xã hội hóa và hợp tác công - tư (PPP) chưa được thúc đẩy, dẫn đến dự án manh mún, hiệu quả thấp. Cách phân bổ kinh phí theo cơ chế “xin - cho” khiến các đơn vị thiếu chủ động, khó tiếp cận công nghệ phù hợp. Trong khi đó, các mô hình sáng tạo như tour thực tế ảo, triển lãm số… chưa được xem là nguồn thu khả thi, nên khó tiếp cận vốn đầu tư.
Để tháo gỡ, cần có quỹ quốc gia về số hóa văn hóa với sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng; khuyến khích doanh nghiệp công nghệ bằng ưu đãi tài chính; đa dạng hóa nguồn vốn quốc tế; đồng thời thiết lập cơ chế hoàn vốn từ sản phẩm số hóa. Muốn thành công, số hóa văn hóa phải được coi là lĩnh vực đầu tư chiến lược, vừa bảo tồn di sản, vừa phát triển công nghiệp văn hóa.

Dự án 3D Mapping Hoàng Thành Thăng Long. Ảnh: Tư liệu
Trong khi nhiều quốc gia như Trung Quốc đã tận dụng AI, Big Data để quảng bá văn hóa toàn cầu, thì Việt Nam mới dừng ở những bước khởi đầu như số hóa bảo tàng, thư viện hay vài dự án thực tế ảo. Các nỗ lực hiện nay vẫn rời rạc, thiếu chiến lược tổng thể và chưa hình thành thương hiệu quốc gia. Điều đáng lo ngại là dù đã nhận thức được vai trò của số hóa văn hóa, chúng ta vẫn thiếu một kế hoạch quốc gia đồng bộ, đủ nguồn lực và định hướng rõ ràng.


Lan tỏa văn hóa dân tộc qua các chương trình truyền hình. Ảnh: NSX
Để không tụt lại trong cuộc đua "sức mạnh mềm số”, Việt Nam cần sớm xây dựng Chiến lược quốc gia về số hóa văn hóa, gắn với công nghiệp văn hóa và chuyển đổi số. Khi đó, số hóa không chỉ là bảo tồn di sản, mà còn góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia và thúc đẩy phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
. Cảm ơn ông!