Nợ xấu 'phình to' tại các ngân hàng thương mại nhỏ
Tới thời điểm hiện tại, hầu hết các ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2024. Tăng trưởng lợi nhuận vẫn tiếp tục được duy trì ở đa số nhà băng, song một số thành viên đang phải đối mặt với các vấn đề về thanh khoản và chất lượng tài sản.
Có thể nói, chất lượng tài sản vẫn là một thách thức lớn của các ngân hàng thương mại trong năm nay, trong khi các ngân hàng vẫn đang đứng giữa việc kéo dài thời gian cơ cấu nợ hay tập trung xử lý nợ xấu trước.
Chất lượng tài sản suy giảm
Theo các chuyên gia phân tích của VIS Rating, trong 6 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ nợ có vấn đề của ngành vẫn giữ ổn định so với quý trước, ở mức 2,2%. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân của các ngân hàng tăng nhẹ lên 1,6% từ mức 1,5% trong năm 2023, nhờ tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp mạnh mẽ hơn và biên lãi ròng (NIM) cao hơn.
Dù vậy, chất lượng tài sản nhiều ngân hàng nhỏ suy giảm. Một số ngân hàng nhỏ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản do tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi thấp.
Khảo sát của VnBusiness từ báo cáo tài chính bán niên của 28 ngân hàng cho thấy, tổng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) cũng đã tăng 5% so với đầu năm, lên gần 135.200 tỷ đồng, chiếm 50% tổng nợ xấu. Trong đó, 24 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng so với đầu năm.
Đáng chú ý, trong 6 tháng vừa qua, cả 3 ngân hàng quốc doanh là Vietcombank, VietinBank và BIDV đều ghi nhận quy mô nợ xấu gia tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tỷ lệ nợ có vấn đề của VietinBank và BIDV tăng lên do lĩnh vực liên quan đến xây dựng và bất động sản.
Cụ thể, tại BIDV, tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản đã tăng từ mức 0,97% cuối năm ngoái lên 1,14% tại thời điểm cuối quý II. Nguyên nhân là các nhóm nợ 3-5 đều tăng lên đáng kể. Đặc biệt, nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) đã tăng 86%.
Với VietinBank, khép lại 2 quý kinh doanh đầu năm, nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) cũng tăng hơn 2 lần, trong khi 2 nhóm nợ còn lại cải thiện nhẹ. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay ở mức 1,57%.
Tính đến hết ngày 30/6, nợ có khả năng mất vốn của Vietcombank đã vượt 10.000 tỷ đồng, tăng gần 28% so với cuối năm ngoái và chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nợ xấu (nhóm 3-5).
Cũng chỉ trong 6 tháng, nợ nhóm 3 và nợ nhóm 4 tại Vietcombank đã tăng lần lượt 75% và hơn 17% lên mức 3.048 tỷ đồng và 3.380 tỷ đồng.
Điều này khiến tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho vay khách hàng của Vietcombank đã tăng từ 0,98% vào cuối năm 2023 lên 1,2% vào cuối quý II vừa qua, kéo theo tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm từ 230% xuống 212%. Dù vậy, đây vẫn là tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất ngành ngân hàng.
Với Agribank, tín hiệu khả quan hơn khi nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) sau 2 quý đầu năm đã giảm 17%. Tuy nhiên, Agribank vẫn ghi nhận nợ nhóm 3 tăng gần gấp đôi và nợ nhóm 4 tăng gần 20% trong nửa đầu năm nay.
Nợ xấu tại nhóm ngân hàng tư nhân cũng ghi nhận xu hướng tăng trong nửa đầu năm nay. Đáng chú ý, các ngân hàng nhỏ suy giảm chất lượng tài sản rõ rệt.
Cụ thể, một số ngân hàng như NCB, BAC A Bank, Saigonbank, VietBank ghi nhận tỷ lệ nợ có vấn đề (NPL) hình thành mới cao hơn so với các ngân hàng khác, chủ yếu từ phân khúc bán lẻ và SME (doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Ngược lại, một số ngân hàng lớn khác như VPBank hay MB đã giảm nợ có vấn đề bằng cách sử dụng dự phòng để xử lý trái phiếu VAMC, hoặc giảm nợ có vấn đề từ khách hàng lớn. Tỷ lệ nợ xấu hình thành mới của TPBank duy trì ở mức thấp nhờ vào việc thắt chặt điều kiện cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng mới.
Khó khăn tăng trưởng tiền gửi
Trong bối cảnh chất lượng tài sản suy giảm, nhiều ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tiền gửi do cạnh tranh ngày càng gay gắt và phải tăng sử dụng nguồn vay liên ngân hàng ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng cho vay.
Tính tới cuối quý II/2024, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi toàn ngành tăng, trong đó các ngân hàng nhỏ có mức tăng trưởng tiền gửi thấp và phải bù đắp bằng tăng nguồn vốn thị trường ngắn hạn.
Theo báo cáo tài chính quý II/2024 của nhiều ngân hàng được VnBusiness thống kê ghi nhận sự suy giảm về tiền gửi khách hàng so với cuối năm 2023 như: TPBank (giảm 2,5%), PVCombank (giảm 1,44%), VietABank (giảm 0,34%), ABBank (giảm 14,52%) và Saigonbank (giảm 0,17%).
Không chỉ các ngân hàng có quy mô nhỏ, ngay cả “ông lớn” Vietcombank cũng ghi nhận tỷ lệ tiền gửi giảm 1,5% so với cuối năm ngoái, đạt 1,37 triệu tỷ đồng.
Báo cáo mới đây của VIS Rating cũng nhấn mạnh, trong số các ngân hàng nhỏ, ABBank và Viet Capital Bank gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tiền gửi do cạnh tranh huy động ngày càng gay gắt và phải tăng sử dụng nguồn vay liên ngân hàng ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng cho vay. Trong khi đó, tài sản thanh khoản chiếm 21% tổng tài sản ngành, không thay đổi so với quý trước.
“Chúng tôi lưu ý tài sản thanh khoản của các ngân hàng nhỏ đã giảm 6% trong 6 tháng đầu năm 2024, trái ngược với mức tăng 5% của ngành. Vì vậy, chúng tôi cho rằng các ngân hàng nhỏ này sẽ dễ bị tổn thương hơn trước rủi ro thanh khoản”, báo cáo của VIS Rating cảnh báo.
Theo các chuyên gia, việc huy động vốn giảm trong quý II đến từ 3 yếu tố: lãi suất huy động đang ở mức thấp; thị trường chứng khoán khởi sắc và thị trường bất động sản dần ấm lên.
Hiện, mức lãi suất huy động kỳ hạn dài của các ngân hàng thương mại cổ phần đang dao động từ 5,7% - 6,1%/năm, trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn duy trì mức lãi suất dưới 5%/năm.
Lãi suất tiền gửi thấp, dòng tiền có xu hướng chảy sang các kênh đầu tư sinh lợi tốt hơn như chứng khoán hay bất động sản, dẫn tới tăng trưởng tiền gửi tại nhiều ngân hàng ngày càng suy giảm.
Trong khi đó, tín dụng cho vay tăng trở lại phần nào đó sẽ tạo ra áp lực tăng lãi suất huy động lên các ngân hàng thương mại, đặc biệt vào giai đoạn giữa và cuối năm 2024, khi nhu cầu tín dụng thường có xu hướng tăng theo yếu tố mùa vụ.
Trong 3 tháng gần đây, lãi suất tiết kiệm đã có xu hướng đảo chiều, hầu hết các ngân hàng đều điều chỉnh tăng, thậm chí một số ngân hàng đã tăng từ 3-5 lần. Mặc dù mức tăng chưa phải là lớn nhưng rõ ràng là tín hiệu thể hiện hiện tượng dư thừa thanh khoản trên thị trường có thể đã giảm bớt.