'Người trong cuộc' chỉ ra điểm nghẽn trong thu hút nhân tài, hợp tác với doanh nghiệp của CSDGĐH

Việc hợp tác giữa trường đại học với doanh nghiệp và viện nghiên cứu hiện đang đứng trước nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít rào cản.

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt ra mục tiêu đến năm 2030, hình thành các viện nghiên cứu và trường đại học có năng lực nghiên cứu mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo.

Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có trình độ cao, đủ khả năng đảm nhận giảng dạy và nghiên cứu trong những lĩnh vực trọng điểm như khoa học cơ bản, công nghệ vi mạch, bán dẫn, kỹ thuật và các ngành công nghệ mũi nhọn. Đồng thời, chú trọng thúc đẩy hợp tác với các trường đại học uy tín quốc tế, đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn mực toàn cầu, hiện đại hóa phương thức giảng dạy, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo.

Đây được xem là định hướng mang tính đột phá, tạo nền tảng cho khoa học và công nghệ Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thập kỷ tới.

Khó thu hút nhân lực chất lượng cao nếu không có chính sách và chế độ đãi ngộ phù hợp

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Cao Nguyên Thi - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang cho biết, nhà trường đang đào tạo một số chương trình trình độ đại học thuộc các lĩnh vực công nghệ gồm: Công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật xây dựng, Công nghệ kỹ thuật cơ khí, Công nghệ kỹ thuật cơ điện tử, Công nghệ kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, Công nghệ sinh học. Đội ngũ giảng viên cơ hữu của các ngành này hiện có 3 phó giáo sư, 6 tiến sĩ và 38 thạc sĩ.

Trong những năm qua, Trường Đại học Tiền Giang đặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên. Đảng ủy Trường đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển đội ngũ viên chức trình độ tiến sĩ giai đoạn 2021-2025, đồng thời Ban Giám hiệu cũng tạo điều kiện thuận lợi về công việc để giảng viên có thêm thời gian tập trung cho học tập và nghiên cứu.

Nhờ những chính sách này, nhiều giảng viên đã trúng tuyển và đang theo học nghiên cứu sinh trong và ngoài nước. Song song với việc đào tạo, nhà trường còn đẩy mạnh tuyển dụng giảng viên mới ở các lĩnh vực công nghệ, nhằm bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

 Giờ học thực hành của sinh viên ngành Công nghệ kỹ thuật cơ khí tại Trường Đại học Tiền Giang. Ảnh: Website nhà trường.

Giờ học thực hành của sinh viên ngành Công nghệ kỹ thuật cơ khí tại Trường Đại học Tiền Giang. Ảnh: Website nhà trường.

Tuy nhiên, việc duy trì và phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên tại Trường Đại học Tiền Giang vẫn còn nhiều trở ngại.

Khó khăn thứ nhất là về tài chính. Để theo học một chương trình tiến sĩ, giảng viên cần khoản đầu tư không nhỏ cho học phí, sinh hoạt, nghiên cứu và chi phí đi lại, đặc biệt khi học ở nước ngoài. Trong khi đó, nguồn hỗ trợ từ nhà trường sau khi giảng viên bảo vệ thành công luận án còn khiêm tốn so với chi phí đào tạo. Điều này khiến nhiều giảng viên dù có năng lực và khát vọng học tập, vẫn phải cân nhắc kỹ lưỡng hoặc trì hoãn việc học lên cao.

Khó khăn thứ hai là môi trường học thuật. Do chưa hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh và thiếu các dự án hợp tác quốc tế quy mô lớn, giảng viên trẻ ít có cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại, tài liệu chuyên sâu cũng như mạng lưới chuyên gia toàn cầu. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng định hướng đề tài, xây dựng công bố khoa học chất lượng và nâng cao trình độ trong quá trình làm nghiên cứu sinh.

Khó khăn thứ ba là sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Các trường đại học lớn ở những trung tâm đô thị có lợi thế vượt trội về cơ sở vật chất hiện đại, nguồn tài chính dồi dào và chính sách đãi ngộ hấp dẫn. Họ không chỉ thu hút đội ngũ giảng viên đã có học vị tiến sĩ mà còn sẵn sàng hỗ trợ cả những người đang theo học nghiên cứu sinh bằng các chương trình học bổng, trợ cấp nghiên cứu và cơ hội tham gia dự án quốc tế.

Những khó khăn này cho thấy việc phát triển đội ngũ tiến sĩ không chỉ đơn thuần là cử giảng viên đi học mà cần có một chiến lược tổng thể, bao gồm cả cơ chế tài chính, hợp tác nghiên cứu và chính sách khuyến khích, đãi ngộ phù hợp.

Để thu hút và giữ chân đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu có năng lực trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, thầy Thi cho rằng, Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp then chốt.

“Trước hết, cần chính sách đãi ngộ đủ sức cạnh tranh, bảo đảm thu nhập thỏa đáng thông qua lương, phụ cấp và đặc biệt là cơ chế thưởng công bố khoa học, nhằm khuyến khích giảng viên, nhà nghiên cứu gắn bó lâu dài.

Tiếp theo, việc đầu tư xây dựng môi trường nghiên cứu hiện đại là hết sức cần thiết, với các phòng thí nghiệm đạt chuẩn, hệ thống thư viện số và nguồn kinh phí ổn định. Trong đó, đặc biệt chú trọng hỗ trợ những trường đại học do địa phương quản lý, giúp họ có điều kiện phát huy vai trò đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển vùng.

Cuối cùng, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học đi đôi với tinh giản thủ tục hành chính và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Song song đó, cần ban hành các cơ chế, chính sách mang tính đột phá để thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp, tạo cơ hội cho giảng viên tham gia nhiều dự án thực tiễn và đẩy mạnh chuyển giao sản phẩm khoa học - công nghệ”, thầy Thi nêu quan điểm.

Còn theo Tiến sĩ Trần Hoàng Vũ - Trưởng khoa Khoa Điện-Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng), hiện nay, Khoa sở hữu đội ngũ giảng viên tương đối đông đảo, cơ bản đáp ứng yêu cầu giảng dạy ở các ngành then chốt như Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử; Công nghệ kỹ thuật điện tử - viễn thông; Tự động hóa và Thiết kế vi mạch bán dẫn.

Nhiều giảng viên đã được đào tạo sau đại học tại các quốc gia có nền khoa học công nghệ phát triển, có công bố quốc tế và tham gia các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, cấp Nhà nước. Tuy nhiên, Khoa Điện-Điện tử cũng đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển đội ngũ.

 Tiến sĩ Trần Hoàng Vũ - Trưởng khoa Khoa Điện - Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

Tiến sĩ Trần Hoàng Vũ - Trưởng khoa Khoa Điện - Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

“Trước hết, chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn còn chưa đồng đều. Số giảng viên có học hàm, học vị cao như giáo sư, phó giáo sư còn khá khiêm tốn, trong khi sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực then chốt như trí tuệ nhân tạo, chip bán dẫn, thiết kế vi mạch đòi hỏi nguồn nhân lực giảng dạy và nghiên cứu ở trình độ chuyên sâu.

Việc thiếu hụt các chuyên gia đầu ngành không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, mà còn khiến công tác xây dựng chương trình đào tạo, triển khai đề tài nghiên cứu lớn hay phát triển phòng thí nghiệm chuyên sâu gặp nhiều hạn chế.

Bên cạnh đó, nguồn lực đào tạo tiến sĩ trong nước còn mỏng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghệ mới. Việc cử giảng viên ra nước ngoài học tập và nghiên cứu cũng gặp không ít rào cản do chi phí đào tạo lớn, cơ chế hỗ trợ còn bất cập, thủ tục ràng buộc phức tạp.

Mặt khác, môi trường nghiên cứu trong nước vẫn còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, chưa có nhiều phòng thí nghiệm hiện đại, cũng như chưa xây dựng được mạng lưới hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp để gắn nghiên cứu với thực tiễn. Điều này khiến giảng viên khó phát huy năng lực, giảm động lực cống hiến lâu dài.

Ngoài ra, áp lực cạnh tranh nhân lực từ các tập đoàn công nghệ trong và ngoài nước cũng ngày càng lớn. Với mức lương và chế độ đãi ngộ hấp dẫn, nhiều giảng viên trẻ, đặc biệt là những người có trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm nghiên cứu quốc tế dễ bị thu hút, rời bỏ môi trường giảng dạy để chuyển sang làm việc cho doanh nghiệp.

Tất cả những yếu tố trên đan xen và tạo thành một vòng luẩn quẩn khiến môi trường học thuật chưa đủ sức hấp dẫn; từ đó, việc giữ chân nhân tài lại càng khó khăn”, Tiến sĩ Trần Hoàng Vũ cho hay.

Trong bối cảnh đó, việc hoạch định chiến lược phát triển nhân lực gắn với các chính sách hỗ trợ thiết thực là yêu cầu cấp thiết. Theo thầy Vũ, để hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57, Việt Nam cần triển khai một hệ thống chính sách đồng bộ và dài hạn nhằm phát triển, giữ chân cũng như thu hút nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu.

Trước hết, cần xây dựng cơ chế đãi ngộ đủ sức cạnh tranh, không chỉ dừng lại ở việc nâng mức thu nhập, phụ cấp nghiên cứu mà còn mở rộng sang các hỗ trợ thiết thực như nhà ở, phòng thí nghiệm hiện đại, qua đó giúp giảng viên yên tâm gắn bó lâu dài.

Song song với đó, cần hoạch định lộ trình phát triển nghề nghiệp rõ ràng, tạo điều kiện cho giảng viên trẻ hoàn thành chương trình tiến sĩ, sau tiến sĩ, được tham gia các dự án nghiên cứu lớn và có cơ hội thăng tiến học thuật minh bạch.

Một giải pháp quan trọng khác là thúc đẩy hợp tác công - tư, để giảng viên có thể làm việc theo mô hình kết hợp “vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu, vừa chuyển giao công nghệ” trong môi trường gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực thực tiễn.

Đồng thời, cần có chính sách mở cửa mạnh mẽ hơn trong việc thu hút chuyên gia quốc tế và Việt kiều, thông qua các chương trình học bổng, quỹ nghiên cứu hay chính sách “sabbatical” (nghỉ phép dài hạn), giúp họ tham gia đào tạo ngắn hạn, chuyển giao tri thức và góp phần nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ của đất nước.

Khoa Điện-Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng) đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57, góp phần đưa trường trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ then chốt, đặc biệt là bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và tự động hóa.

Hợp tác giữa Nhà trường - Doanh nghiệp - Viện nghiên cứu khó tìm được tiếng nói chung

Bên cạnh đó, Tiến sĩ Trần Hoàng Vũ cho rằng việc hợp tác giữa trường đại học với doanh nghiệp và viện nghiên cứu hiện đang đứng trước nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít rào cản.

Về thuận lợi, Việt Nam ngày càng nhận được sự quan tâm mạnh mẽ từ Nhà nước và xã hội đối với các lĩnh vực công nghệ cao, qua đó tạo môi trường pháp lý và cơ hội hợp tác rộng mở. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng mong muốn gắn kết với trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu - phát triển (R&D), đặc biệt ở các lĩnh vực tiềm năng như bán dẫn, IoT, trí tuệ nhân tạo (AI). Bên cạnh đó, nhà trường đã thiết lập mạng lưới đối tác với các công ty, tập đoàn lớn giúp mang lại học bổng, phòng thí nghiệm và nhiều sân chơi bổ ích cho sinh viên.

Tuy vậy, vẫn còn những rào cản khiến hợp tác chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Doanh nghiệp chủ yếu quan tâm đến lợi ích kinh tế trong khi trường đại học chú trọng mục tiêu đào tạo và nghiên cứu dài hạn, dẫn đến khó tìm được tiếng nói chung. Thêm vào đó, thủ tục hành chính và pháp lý còn rườm rà khiến việc ký kết và triển khai hợp tác mất nhiều thời gian. Nguồn kinh phí nghiên cứu và cơ sở vật chất của trường cũng còn hạn chế, chưa đáp ứng được các dự án quy mô lớn.

 Giờ thực hành Thiết kế vi mạch bán dẫn của sinh viên Khoa Điện-Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: Website nhà trường.

Giờ thực hành Thiết kế vi mạch bán dẫn của sinh viên Khoa Điện-Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: Website nhà trường.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Cao Nguyên Thi nhận định rào cản lớn nhất hiện nay nằm ở cơ chế phối hợp chưa chặt chẽ và thủ tục hành chính phức tạp, khiến tiến độ triển khai các hoạt động chung bị chậm trễ.

Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất nghiên cứu của trường, đặc biệt ở một số ngành công nghệ then chốt vẫn còn hạn chế; đội ngũ giảng viên trình độ cao trong các lĩnh vực này chưa nhiều, chưa hình thành được nhóm nghiên cứu mạnh.

Sự khác biệt lớn nhất đến từ mục tiêu giữa hai phía: doanh nghiệp thường chú trọng lợi nhuận ngắn hạn, trong khi trường đại học ưu tiên định hướng nghiên cứu lâu dài. Ngoài ra, việc thiếu những tổ chức trung gian làm “cầu nối” giữa nhà trường - viện nghiên cứu - doanh nghiệp cũng là một khó khăn đáng kể, ảnh hưởng đến tính bền vững của hợp tác.

Trước những thách thức nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải có giải pháp đồng bộ và lâu dài. Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang, để rút ngắn khoảng cách giữa các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam với các đại học nước ngoài, trước hết cần chuẩn hóa chuẩn đầu ra theo các chương trình tiên tiến, tiệm cận chuẩn quốc tế, đồng thời xây dựng chương trình đào tạo theo hướng linh hoạt, mô-đun, cho phép công nhận tín chỉ từ các đối tác trong và ngoài nước.

Song song đó, trong bối cảnh công nghệ và trí tuệ nhân tạo bùng nổ, việc tích hợp AI vào dạy và học phải được thực hiện một cách có trách nhiệm thông qua các nền tảng như LMS, học tập thích ứng, trợ giảng AI, phòng thí nghiệm ảo,... đi kèm các quy định rõ ràng về đạo đức và liêm chính học thuật.

Một nhiệm vụ quan trọng khác là phát triển năng lực đội ngũ giảng viên về sư phạm số, thiết kế học liệu số, đồng thời thúc đẩy hoạt động đồng giảng và trao đổi giảng viên quốc tế để tăng cường năng lực hội nhập. Các trường cũng cần đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp trong thiết kế, triển khai môn học nhằm đảm bảo tính thực tiễn, nâng cao khả năng thích ứng nghề nghiệp cho sinh viên, đồng thời đầu tư toàn diện cho hạ tầng số phục vụ quản trị đại học, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình hiện đại hóa.

Thúy Hiền

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/nguoi-trong-cuoc-chi-ra-diem-nghen-trong-thu-hut-nhan-tai-hop-tac-voi-doanh-nghiep-cua-csdgdh-post254333.gd