Người tiêu dùng, nhà kinh doanh sữa lúng túng vì quy định không rõ ràng
Hiệp hội sữa đề xuất các khái niệm 'sữa tươi nguyên liệu', 'sữa hoàn nguyên', 'sữa hỗn hợp' cần được định nghĩa rõ ràng, minh bạch, bảo đảm thống nhất, tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp sữa làm ăn nghiêm túc.
Thời gian qua, người tiêu dùng và doanh nghiệp (DN) chân chính không khỏi băn khoăn trước hệ thống tiêu chuẩn ngành sữa. Việc tiêu chuẩn chưa theo kịp thực tế được xem là một trong những nguyên nhân khiến sữa giả, sữa kém chất lượng trà trộn và ngành chăn nuôi bò sữa trong nước thu hẹp.
Để làm rõ vấn đề này, Báo Pháp Luật TP.HCM có cuộc trao đổi với ông Tống Xuân Chinh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Sữa Việt Nam.

Ông Tống Xuân Chinh
Sản phẩm làm từ sữa bột pha lại nhưng vẫn quảng bá là “sữa tươi”
- Phóng viên: Thưa ông, đâu là những bất cập cốt lõi trong các quy định hiện hành khiến doanh nghiệp ngành sữa đang rất khó khăn?
+ Ông Tống Xuân Chinh: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sữa dạng lỏng ở Việt Nam ban hành từ năm 2010 chưa thật sự phù hợp và chưa đồng bộ với thông lệ quốc tế. Chúng tôi có thể khái quát một vài bất cập sau.
Thứ nhất, thiếu định nghĩa pháp lý rõ ràng, các khái niệm “sữa tươi”, “sữa nguyên liệu” và “sữa hoàn nguyên” chưa được quy định rõ ràng trong quy chuẩn/tiêu chuẩn. Do vậy, có trường hợp sản phẩm làm từ sữa bột pha lại nhưng vẫn quảng bá dưới tên gọi “sữa tươi”, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và làm thiệt thòi cho nông dân nuôi bò sữa.
Thứ hai, quy định về ghi nhãn chưa cụ thể: Nghị định hiện hành (Nghị định số 43/2017/NĐ-CP và Nghị định 111/2021/NĐ-CP) đã quy định ghi nhãn thành phần tạo nên sản phẩm, nhưng chưa quy định khi nào được ghi nhãn sữa tươi. Trong khi đó, tại EU hay Thái Lan, chỉ sản phẩm 100% từ sữa tươi mới được ghi “sữa tươi”, còn sản phẩm pha từ sữa bột phải ghi “sữa hoàn nguyên”.
Thứ ba, năng lực kiểm nghiệm còn hạn chế: Các phòng thí nghiệm ở Việt Nam chưa áp dụng phổ biến những phương pháp khoa học tiên tiến như phân tích đồng vị hay marker sinh học – vốn là chuẩn quốc tế để xác định nguồn gốc sữa.
Thứ tư, thiếu chính sách bảo hộ ngành chăn nuôi bò sữa nội địa: Chúng ta chưa có chính sách ưu tiên sử dụng sữa tươi trong nước cho các chương trình như “sữa học đường”, trong khi nhiều quốc gia trong khu vực đã áp dụng thành công để bảo vệ và phát triển đàn bò sữa.
Theo Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 mục tiêu sản lượng sữa tươi đến 2025 đạt 1,7 - 1,8 triệu tấn, năm 2030 đạt 2,6 triệu tấn sữa. Bình quân sản phẩm sữa/người/năm thì đến năm 2025 đạt từ 16-18 kg sữa tươi và đến năm 2030 đạt từ 24-26 kg sữa tươi.
Hiện nay tiêu thụ bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 26-28 lít/người/năm, trong khi Thái Lan là 35 lít/người/năm, Singapore là 45 lít/người/năm và châu Âu từ 80-100 lít/người/năm. Nguyên liệu sữa trong nước đáp ứng 40% nhu cầu tiêu thụ.
- Vậy theo Hiệp hội Sữa Việt Nam, phương án đề xuất sửa đổi nên theo hướng nào để bảo đảm cho doanh nghiệp chân chính cạnh tranh tốt trên thị trường?
+ Quan điểm của Hiệp hội Sữa Việt Nam là cần sớm hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp sữa làm ăn nghiêm túc. Phương án sửa đổi chúng tôi đề xuất sẽ đi theo một số hướng trọng tâm sau.
Thứ nhất, ban hành Quy chuẩn quốc gia mới về sữa dạng lỏng, trong đó các khái niệm “sữa tươi nguyên liệu”, “sữa hoàn nguyên”, “sữa hỗn hợp” cần được định nghĩa rõ ràng, minh bạch, bảo đảm thống nhất. Tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng theo quản lý rủi ro, phù hợp với quy định của CODEX và quốc tế.
Thứ hai, tăng cường năng lực kiểm nghiệm, cụ thể là nhà nước cần đầu tư, xã hội hóa các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, áp dụng phương pháp phân tích hiện đại (đồng vị, marker sinh học) để phân biệt sữa tươi với sữa hoàn nguyên.
Thứ ba, có chính sách phát triển ngành chăn nuôi bò sữa trong nước, theo đó hiệp hội đề xuất ưu tiên sử dụng sữa tươi nội địa trong chương trình “sữa học đường” và các chính sách công. Bên cạnh đó, hiện nay sản lượng sữa tươi nguyên liệu của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu sản xuất của ngành. Do đó, việc phát triển đàn bò sữa Việt Nam cần được quan tâm hơn nữa để tiến tới Việt Nam giảm dần nhập khẩu sản phẩm sữa.
Thứ tư, triển khai Ứng dụng QR code, RFID để người tiêu dùng có thể nhận diện rõ nguồn gốc, minh bạch chuỗi giá trị.
Nếu các đề xuất này được thể chế hóa, chắc chắn sẽ giúp loại bỏ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ đúng chuẩn. Đồng thời đưa ngành sữa Việt Nam phát triển ngang tầm quốc tế và khu vực Asean.

Một doanh nghiệp sữa lớn của Việt Nam đầu tư chuỗi sản xuất sữa khép kín
Nói không với sữa giả, cần đồng bộ nhiều giải pháp
- Sữa giả là mối lo ngại lớn của người dân trong thời gian qua, vậy liệu việc chỉ sửa đổi định nghĩa có đủ ngăn chặn tình trạng sữa giả không, thưa ông?
+ Thời gian qua, hàng loạt sản phẩm sữa giả đã được các cơ quan điều tra phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, các sản phẩm sữa giả bị phát hiện này chủ yếu là sản phẩm sữa dạng bột.
Việc dự thảo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sữa dạng lỏng sửa đổi định nghĩa pháp lý để minh bạch “sữa tươi” với “sữa hoàn nguyên”, “sữa hỗn hợp” là bước đi cần thiết, góp phần loại bỏ sản xuất “sữa giả”.
Tuy nhiên, để nói không với sữa giả, cần đồng bộ nhiều giải pháp như ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc. Các nước tiên tiến đã áp dụng blockchain hoặc mã QR truy xuất để người tiêu dùng có thể kiểm tra được hành trình của sữa, từ nông trại, nhà máy cho tới siêu thị. Đây là giải pháp rất khả thi ở Việt Nam, nhất là khi chúng ta đã có nền tảng truy xuất nguồn gốc trong nông nghiệp.
Bên cạnh đó là tăng cường hậu kiểm, không thể chỉ dựa vào khâu công bố tiêu chuẩn mà phải có kiểm tra định kỳ, đột xuất; hậu kiểm theo quản lý rủi ro. Đầu tư thiết bị phân tích hiện đại (đồng vị C13/C14, marker protein, đường đặc trưng) để phát hiện gian lận pha trộn đối với sữa.
Cuối cùng là chế tài xử phạt, cần sửa đổi Nghị định xử phạt hành chính, nâng mức phạt đối với hành vi sản xuất kinh doanh sữa giả đủ sức răn đe. Bên cạnh đó là đẩy mạnh tuyên truyền cho người tiêu dùng; cần khuyến khích hiệp hội, báo chí và chính người tiêu dùng tham gia giám sát.
- Hội Chăn nuôi Việt Nam đã đưa ra một đề xuất rất đáng chú ý, đó là doanh nghiệp kinh doanh sữa phải có vùng nguyên liệu hoặc cam kết sử dụng một tỉ lệ tối thiểu sữa tươi nguyên liệu trong nước. Hiệp hội có cùng quan điểm về đề xuất này không, thưa ông?
+ Hiện nay một số doanh nghiệp sản xuất sữa lớn của Việt Nam đã đang đầu tư các trang trại chăn nuôi bò sữa như: Công ty Vinamilk, Công ty Nutifood, Công ty TH, Công ty Sữa Ba Vì, Công ty Sữa Mộc Châu, Công ty FCV… Việc các công ty chú trọng đầu tư vùng nguyên liệu giúp bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành sữa trong nước.
Thủ tướng đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có phát triển đàn bò sữa. Các doanh nghiệp chế biến sữa cần gắn trách nhiệm với ngành chăn nuôi bò sữa trong nước theo hướng khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu tập trung với hỗ trợ về đất đai, hạ tầng, tín dụng, bảo hiểm. Ưu tiên chính sách cho doanh nghiệp tuân thủ như miễn giảm thuế nhập khẩu bột sữa, ưu đãi tín dụng, quyền tham gia các chương trình quốc gia như sữa học đường.
Đối với phát triển vùng nguyên liệu trong nước, chúng tôi đề xuất cơ chế gắn doanh nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu hoặc cam kết tỉ lệ tối thiểu sữa tươi nội địa; đồng thời có chính sách tín dụng, đất đai, hạ tầng, bảo hiểm… để hỗ trợ nông hộ và trang trại.
Đặc biệt, cần phát triển thị trường tiêu thụ ổn định. Theo đó, hiệp hội đề xuất xây dựng “Chương trình sữa học đường” với nguyên tắc 100% sữa tươi nội địa, học tập kinh nghiệm Thái Lan, đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu.
- Xin cảm ơn ông!
Sản phẩm sữa được bổ sung vi chất
Hiện nay các sản phẩm sữa dạng lỏng được bổ sung vi chất hoặc có ghi công dụng sức khỏe, hầu hết nằm trong nhóm thực phẩm chức năng.
Theo quy định của pháp luật (Luật An toàn thực phẩm, Nghị định số 15/2018/NĐ-CP) những sản phẩm này phải có bằng chứng khoa học chứng minh các công dụng của sản phẩm.
Theo dự thảo của Bộ Công Thương, nhóm sản phẩm có bổ sung vi chất hoặc có ghi công dụng sức khỏe không nằm trong phạm vi của Quy chuẩn này. Đối với sản phẩm sữa được bổ sung vi chất hoặc có ghi công dụng sức khỏe việc công khai các bằng chứng khoa học là cần thiết để minh bạch thông tin, tránh quảng cáo không đúng quy định. Điều này vừa góp phần bảo vệ người tiêu dùng vừa tạo nên cạnh tranh lành mạnh giúp cơ quan nhà nước quản lý tốt.
Mặc dù nghiên cứu lâm sàng là một hoạt động tốn kém cả về thời gian lẫn kinh phí, tuy nhiên, không thể vì chi phí cao mà bỏ qua yêu cầu này, nhất là với những sản phẩm sữa được quảng bá có công dụng đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng, nhất là trẻ em và người già.
Vấn đề đặt ra là cách triển khai sao cho khoa học, minh bạch, hợp lý và không biến thành gánh nặng cuối cùng dồn hết vào giá sữa.