Mô hình tăng trưởng mới cần ngành kinh tế mũi nhọn
Trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, việc xác định đúng ngành kinh tế mũi nhọn và chiến lược xuất khẩu, không chỉ là lựa chọn kỹ thuật mà là quyết định chiến lược.

Việc đẩy mạnh liên kết giữa DN logistics và DN sản xuất, xuất khẩu để thúc đẩy ngành logistics phát triển, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.
Vì sao Việt Nam chưa có được thành công
Thực ra các quốc gia Đông Á thành công nhờ đã triển khai một loạt các biện pháp đồng bộ và chiến lược phát triển dài hạn. Như tập trung ưu tiên các ngành công nghiệp then chốt thông qua chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để tiếp nhận vốn và công nghệ, và chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hay đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng giao thông, logistics, năng lượng và viễn thông, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng. Bên cạnh là linh hoạt chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thích ứng với biến động toàn cầu, duy trì ổn định vĩ mô và phát huy lợi thế riêng của từng quốc gia.
Những quốc gia này với sự dẫn dắt của nhà nước trong việc xác định ngành ưu tiên, thiết kế chính sách hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Mỗi quốc gia còn có những chính sách đặc thù để phát huy tối đa lợi thế riêng, như Nhật Bản tập trung phát triển công nghiệp và huy động nguồn lực nội địa, Hàn Quốc ưu tiên các tập đoàn lớn, Singapore mở cửa và tận dụng vị trí địa lý, hay Trung Quốc cải thiện môi trường kinh doanh.

Việt Nam đã đi theo con đường tương tự trong hơn ba thập niên qua, với mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Việt Nam đã thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) để phục vụ xuất khẩu và tận dụng lực lượng lao động dồi dào, đồng thời tích cực tham gia và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Nhưng vẫn chưa thành công như các nước Đông Á là do khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế; các doanh nghiệp FDI ít liên kết với doanh nghiệp trong nước, khiến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn gia công giá trị thấp và phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên liệu.
Sự phụ thuộc vào xuất khẩu gia công khiến nền kinh tế dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài như suy giảm toàn cầu, căng thẳng thương mại hay các biện pháp phòng vệ từ đối tác lớn. Trong khi đó, nỗ lực chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn gặp nhiều khó khăn do chất lượng nguồn nhân lực thấp, năng lực R&D hạn chế và môi trường thể chế chưa thực sự thuận lợi.
Vai trò Nhà nước
Từ kinh nghiệm của các quốc gia Đông Á, bài học quan trọng đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của Nhà nước trong việc xác định các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn và tạo ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh thuận lợi.
Nhà nước cần chủ động dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, tiềm năng xuất khẩu và khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao.
Khi việc dàn trải nguồn lực và xuất khẩu ở quá nhiều ngành nghề, dù tạo ra doanh thu ngắn hạn nhưng lại tiềm ẩn rủi ro dài hạn. Một chiến lược tập trung vào các ngành có khả năng tạo ra công nghệ, đổi mới sáng tạo và liên kết chuỗi giá trị sẽ mang lại hiệu quả bền vững hơn.
Để vượt qua giới hạn của mô hình tăng trưởng hiện tại, Việt Nam cần chuyển từ xuất khẩu dàn trải sang chiến lược chọn lọc, tập trung vào các ngành có giá trị gia tăng cao, thâm dụng công nghệ, kỹ năng và hàm lượng tri thức. Những ngành này không chỉ tạo ra giá trị lớn hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm, mà còn giúp giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, tăng khả năng chống chịu trước các biện pháp phòng vệ thương mại.
Các sản phẩm công nghệ cao thường ít bị cạnh tranh về giá, ít chịu ảnh hưởng từ thuế quan và có khả năng duy trì thị phần ổn định hơn. Đây là lý do các quốc gia như Hàn Quốc hay Nhật Bản luôn ưu tiên phát triển công nghiệp điện tử, chế tạo máy, hóa chất tinh vi… thay vì chỉ dựa vào hàng tiêu dùng hoặc nguyên liệu thô.
Để thúc đẩy nội địa hóa và nâng cao giá trị gia tăng, Việt Nam cần áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa. Khi doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều nguyên liệu, linh kiện và dịch vụ trong nước, không chỉ giá trị gia tăng nội địa được nâng cao, mà còn thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, tạo thêm việc làm và nâng cao năng lực sản xuất quốc gia.
Và một ngành kinh tế mũi nhọn
Không thể phát triển ngành mũi nhọn nếu thiếu nền tảng hạ tầng và nhân lực. Các quốc gia thành công đều đầu tư mạnh vào giao thông, năng lượng, viễn thông và logistics. Đây là những yếu tố giúp giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng kết nối và nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Việt Nam cần tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động.
Một điểm nghẽn khác là sự hiện diện quá lớn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nhiều lĩnh vực không cần thiết. Nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực và làm chậm quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các DNNN không hiệu quả, đặc biệt trong những ngành không phải là trọng tâm chiến lược. Nguồn thu từ việc thoái vốn có thể được tái đầu tư vào các dự án hạ tầng, năng lượng tái tạo hoặc công nghiệp công nghệ cao.
Bên cạnh đó, mô hình hợp tác công-tư (PPP) cần được thúc đẩy mạnh mẽ. Khi Nhà nước tham gia cùng doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm, sẽ tận dụng được thế mạnh của cả hai bên: nguồn lực tài chính và định hướng chiến lược từ Nhà nước, kết hợp với công nghệ, quản trị và khả năng thực thi từ khu vực tư nhân.
Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, mà còn đảm bảo các dự án được triển khai nhanh chóng, hiệu quả và bền vững hơn, mang lại lợi ích lâu dài cho đất nước.
Việt Nam chưa có chiến lược xác định các ngành ưu tiên mũi nhọn để từ đó có những chính sách hỗ trợ thích hợp. Chiến lược phát triển công nghiệp và xuất khẩu của Việt Nam khá dàn trải và không có ngành đóng vai trò xương sống, dẫn dắt.