Minh bạch, hiệu quả quản lý và sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng

LTS: Thực hiện chính sách chi trả DVMTR, tỉnh ta đã ban hành cơ chế quản lý và sử dụng tiền DVMTR; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các sai phạm, nhất là ở cơ sở. Để đảm bảo sự minh bạch, hiệu quả, tạo sự đồng thuận của cộng đồng, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh đã tham mưu cho UBND tỉnh, tổ chức tham vấn và xây dựng Quy chế quản lý, sử dụng tiền dịch vụ MTR của thôn, bản. Phóng viên Báo Sơn La có cuộc trao đổi với ông Lê Trọng Bình, Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh về vấn đề này, xin giới thiệu cùng bạn đọc.

Tổ bảo vệ rừng bản He, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai phối hợp với kiểm lâm địa bàn tuần tra bảo vệ rừng.

Tổ bảo vệ rừng bản He, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai phối hợp với kiểm lâm địa bàn tuần tra bảo vệ rừng.

P.V: Xin ông cho biết một số kết quả trong thực hiện chính sách chi trả dịch môi trường rừng của tỉnh những năm qua?

Ông Lê Trọng Bình: Trên địa bàn toàn tỉnh hiện còn hơn 641.000 ha rừng, trong đó trên 565.000 ha được chi trả DVMTR. Những năm qua, việc triển khai thực hiện chính sách chi trả DVMTR đã góp phần quan trọng làm thay đổi nhận thức của bên sử dụng cũng như bên cung ứng dịch vụ MTR và các tầng lớp nhân dân.

Hàng năm, với nguồn thu từ 200-250 tỷ đồng, chi trả cho hơn 40.000 chủ rừng được hưởng lợi từ DVMTR và các lợi ích khác từ rừng mang lại. Đây là nguồn lực tài chính ngoài ngân sách, mang tính ổn định, bền vững, phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chiến lược phát triển lâm nghiệp bền vững và chương trình xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, từ nguồn DVMTR và các nguồn kinh phí xã hội hóa khác, các chủ rừng đã chi hàng trăm tỷ đồng xây dựng trên 7.000 công trình đường giao thông nông thôn, thủy lợi, nhà văn hóa và các công trình phục vụ đời sống, sản xuất của nhân dân.

P.V: Sự cần thiết của việc xây dựng quy chế quản lý, sử dụng tiền DVMTR của thôn, bản?

Ông Lê Trọng Bình: Các cộng đồng bản có vai trò hết sức quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng ở cơ sở. Theo số liệu thống kê, trên địa bàn toàn tỉnh mỗi năm có trên 2.100 cộng đồng được thụ hưởng từ 97-130 tỷ đồng, chiếm trên 50% tổng số tiền DVMTR của toàn tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí này lại chủ yếu thực hiện theo quy ước và hương ước của bản, chưa có quy định cụ thể mang tính pháp lý. Do đó, việc quản lý, sử dụng chưa đạt được hiệu quả cao. Để hướng tới mục tiêu nguồn tiền DVMTR được quản lý, sử dụng công khai, minh bạch và phát huy hiệu quả, cũng như cụ thể hóa quy chế bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng, nhân rộng mô hình Quy chế quản lý và sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng tại thôn, bản để nâng cao hiệu quả việc quản lý, sử dụng tiền DVMTR tại cơ sở, phòng ngừa những sai sót, vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách.

P.V: Nguyên tắc và đối tượng áp dụng trong Quy chế quản lý, sử dụng tiền DVMTR của bản được xây dựng như thế nào, thưa ông?

Ông Lê Trọng Bình: Quy chế quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng của bản hướng đến mục tiêu thực hiện chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” . Từ đó, cụ thể hóa giải pháp “Sử dụng hiệu quả kinh phí dịch vụ môi trường rừng, trọng tâm là nghiên cứu cơ chế khuyến khích các chủ rừng sử dụng tiền từ dịch vụ môi trường rừng phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng” theo chủ trương của Tỉnh ủy và chỉ đạo của UBND tỉnh, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Quy chế được xây dựng trên nguyên tắc thảo luận tập thể, dân chủ, tôn trọng ý kiến đóng góp của người dân, chủ rừng, cộng đồng, trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng và công khai, minh bạch, biểu quyết và quyết định theo đa số, để ban hành quy chế, làm cơ sở để triển khai thực hiện và chịu sự giám sát của nhân dân.

Nguồn tiền DVMTR sử dụng trong quy chế là nguồn được nhận từ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh; từ chủ rừng là các Ban quản lý rừng đặc dụng phòng hộ, doanh nghiệp, UBND cấp xã, thông qua hợp đồng bảo vệ rừng với các cộng đồng. Đối tượng áp dụng là các hộ gia đình, cá nhân, ban quản lý bản, tổ bảo vệ rừng của bản, nhóm phụ nữ tiết kiệm. Hàng năm, Ban quản lý bản họp lấy ý kiến của nhân dân để điều chỉnh, bổ sung quy chế và kiện toàn nhân sự cho phù hợp với điều kiện thực tế.

Quy chế quy định rõ việc sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng vào các nội dung cụ thể theo thứ tự ưu tiên, gồm chi cho công tác quản lý bảo vệ rừng; chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; chi hỗ trợ cho nhóm phụ nữ tiết kiệm tự quản; chi hỗ trợ phát triển sinh kế... Thời gian chậm nhất sau một tháng kể từ khi nhận được tiền dịch vụ môi trường rừng, Ban quản lý bản họp dân để thông báo số tiền nhận được, thống nhất tỷ lệ trích lập quỹ theo thứ tự ưu tiên, đảm đủ nguồn lực chi cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sinh kế cho người dân.

P.V: Xin cảm ơn ông.

Ngọc Thuấn (thực hiện)

Nguồn Sơn La: http://www.baosonla.org.vn/vi/bai-viet/minh-bach-hieu-qua-quan-ly-va-su-dung-tien-dich-vu-moi-truong-rung-49470