Liên kết nông nghiệp: Hiệu quả nhưng chưa bền vững
Từ chỗ mạnh ai nấy làm, hợp tác theo mùa vụ dẫn đến tình trạng 'được mùa, mất giá', hay 'bẻ kèo' khi giá cả thị trường biến động, nay nhờ liên kết, nhiều mô hình sản xuất mới ra đời và mang lại hiệu quả cao hơn cho cả người dân và doanh nghiệp. Trong bối cảnh mới, để quá trình liên kết được bền vững, các ngành chức năng cần sớm tháo gỡ những điểm nghẽn được nhận diện, bắt đầu từ cơ chế, chính sách.

Liên kết nông nghiệp hiệu quả nhưng chưa bền vững. Ảnh: N.LỘC
Từ liên kết tạo nên nhiều mô hình sản xuất giá trị cao
Trong ngành lúa gạo, nhiều địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành các mô hình liên kết tiêu biểu, như giữa doanh nghiệp Trung An với các hợp tác xã (HTX) sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn SRP, xuất khẩu sang Nhật Bản. Các mô hình của Nafoods tại Nghệ An hay Vina T&T tại Sơn La cũng cho thấy thành công khi doanh nghiệp cùng tham gia xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn GlobalGAP và truy xuất điện tử, đáp ứng yêu cầu thị trường châu Âu và Hoa Kỳ.
Trong chăn nuôi, các tập đoàn như TH True Milk, CP Việt Nam… đã phát triển mô hình liên kết khép kín, áp dụng công nghệ cao giúp nâng cao giá trị gia tăng và giảm phát thải. Đây là minh chứng rõ ràng về hiệu quả của quá trình liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và thay đổi phương thức sản xuất.
Đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, từ tinh thần Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã giúp chuyển biến tư duy, hành động của người dân trong liên kết sản xuất. Theo Nghị định, có 7 hình thức liên kết được thiết lập, nhưng thực tế các mô hình chuỗi rất đa dạng và đã triển khai trên hầu hết các lĩnh vực sản xuất chủ lực: Trồng trọt có 1.969 dự án (67%); chăn nuôi 695 dự án (23,7%); thủy sản 72 dự án (2,5%); lâm nghiệp 184 dự án (6,3%).
Cục trưởng Lê Đức Thịnh nhấn mạnh, nông dân đã chủ động liên kết, sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp thay vì tự sản xuất phụ thuộc thương lái. Nhiều địa phương hình thành vùng nguyên liệu lớn, gắn sản xuất với truy xuất nguồn gốc, tạo điều kiện cho nông sản tham gia thị trường xuất khẩu chính ngạch. Chuyên gia Hoàng Trọng Thủy nhận định: “Nhờ sự đồng bộ này, nhiều chuỗi giá trị nông sản đã được hoàn thiện, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng giá trị và bền vững”.
Tính đến cuối năm 2024, cả nước có hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị nông sản, với hơn 300.000 hộ nông dân tham gia thông qua gần 2.000 HTX. Tổng vốn đầu tư huy động từ các bên ước đạt trên 20.000 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng của doanh nghiệp chiếm 50-60%, phản ánh xu hướng chia sẻ rủi ro và lợi ích trong sản xuất nông nghiệp hiện đại.
Điều quan trọng là khi tham gia các mô hình liên kết, người dân được hưởng lợi trực tiếp, với thu nhập tăng 10-20% so với sản xuất đơn lẻ, nhờ giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất, đảm bảo đầu ra ổn định và có hợp đồng bao tiêu rõ ràng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng nâng cao hiệu quả sản xuất, kiểm soát chất lượng nguyên liệu, từ đó tăng uy tín thương hiệu và khả năng cạnh tranh.
Khẩn trương tháo gỡ rào cản
Dù đạt nhiều kết quả, quá trình triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP vẫn bộc lộ hạn chế khiến hiệu quả liên kết chưa tương xứng tiềm năng.
Vấn đề lớn nhất hiện nay là tính bền vững của liên kết. Ở nhiều nơi, mô hình liên kết chỉ dừng lại ở hợp đồng mua - bán sản phẩm, thiếu cam kết dài hạn và cơ chế ràng buộc về đầu tư, kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, cả doanh nghiệp và nông dân có thể “bẻ kèo”, dẫn đến đứt gãy liên kết. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn gặp khó khi tiếp cận tín dụng và thiếu cơ chế bảo hiểm rủi ro, nên chưa mặn mà trong đầu tư hạ tầng và vùng nguyên liệu lâu dài. Phí đối ứng của doanh nghiệp, HTX khi tham gia dự án lớn, cũng như hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước còn khá thấp.
Đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn dẫn chứng, theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, mức hỗ trợ cho trang thiết bị, cơ sở hạ tầng sản xuất chỉ tối đa 30% chi phí đầu tư và không quá 10 tỷ đồng cho một dự án. Doanh nghiệp và HTX phải đối ứng 70% vốn đầu tư, nên nhiều tổ chức nhỏ không đáp ứng được, dẫn đến khó thụ hưởng chính sách.
Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ chưa gắn với chuyển đổi xanh, sinh thái và công nghệ số. Cơ chế hiện hành chưa khuyến khích các mô hình tự chủ, ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo - trong khi đây là xu thế chuyển dịch của nền kinh tế và ngành nông nghiệp.
TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam) nhận xét: “Liên kết trong nông nghiệp Việt Nam tuy đã hình thành về lượng, nhưng chưa vững về chất và chưa theo kịp thực tiễn.” Theo bà, Việt Nam cần khung chính sách mới linh hoạt hơn, gắn kết với công nghệ số, tiêu chuẩn xanh và cơ chế chia sẻ rủi ro, để hợp tác, liên kết trở thành “chuẩn mực” trong sản xuất nông nghiệp kỷ nguyên mới.
Về lâu dài, chuyên gia đề nghị hoàn thiện ba khía cạnh: Thể chế - năng lực tổ chức - hạ tầng số, trọng tâm là sửa đổi Nghị định số 98/2018/NĐ-CP. Cần ưu tiên xây dựng vùng nguyên liệu, tích hợp chính sách hỗ trợ hạ tầng, tín dụng xanh, chuyển đổi số để hình thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn. Đồng thời, đẩy mạnh cơ chế quản trị rủi ro chuỗi giá trị gắn với bảo hiểm nông nghiệp - cơ chế “ràng buộc mềm” giúp doanh nghiệp và nông dân gắn bó, nâng cao giá trị sản xuất. Cần chú trọng tuyên truyền hiệu quả kinh tế - xã hội của mô hình chuỗi liên kết để người dân thấy sự cần thiết hợp tác; thay đổi tập quán sản xuất nhỏ lẻ sang nông nghiệp hàng hóa, tập trung, gia tăng giá trị./.
Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/lien-ket-nong-nghiep-hieu-qua-nhung-chua-ben-vung-44445.html











