Làm rõ nội hàm đổi mới sáng tạo khi sửa Luật Khoa học và công nghệ
Hiện nay, nội hàm đầy đủ của đổi mới sáng tạo, cùng các thành tố liên quan vẫn chưa được quy định rõ ràng trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Dự kiến, Luật Khoa học và công nghệ 2013 sẽ được đổi tên thành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Việc bổ sung nội hàm đổi mới sáng tạo được kỳ vọng sẽ thiết lập các hành lang pháp lý đầy đủ để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, đồng thời khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, cộng đồng và trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Thế Duy đã có những chia sẻ về một số nội dung đáng chú ý trong việc sửa đổi Luật KH&CN 2013.
Thưa Thứ trưởng, tại phiên họp đầu tiên của Ban Chỉ đạo xây dựng dự án Luật KH&CN (sửa đổi), Ban Chỉ đạo đã thống nhất tên gọi của dự án luật là Luật KHCN và đổi mới sáng tạo với 3 nội hàm: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cần được gắn trong một thể thống nhất. Xin Thứ trưởng chia sẻ rõ hơn?
Thứ trưởng Bùi Thế Duy: Ngày 28/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 457/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng dự án Luật KH&CN (sửa đổi), do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang làm Trưởng ban.
Đây là lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo để xây dựng một dự án luật do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang làm Trưởng ban, không chỉ thể hiện sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với sự phát triển của KHCN, mà còn là một cách tiếp cận mới nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật.
Có thể nói, trên thế giới hiện nay đã hình thành một phong trào về đổi mới sáng tạo, dẫn đến việc phát triển các khái niệm, như hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ thống đổi mới sáng tạo ngành và các mô hình kết nối khác.
Việt Nam cũng đang chuyển mình theo xu hướng toàn cầu này, chuyển sang mô hình phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và viện nghiên cứu, trường đại học là các chủ thể nghiên cứu chính. Bên cạnh việc ứng dụng KHCN, hoạt động đổi mới sáng tạo còn tập trung vào việc cải tiến quy trình sản xuất.
Khái niệm đổi mới sáng tạo đã được định nghĩa trong Luật KH&CN 2013 và cũng có thể xuất hiện trong một số luật khác. Tuy nhiên, nội hàm đầy đủ của đổi mới sáng tạo cùng các thành tố liên quan đến nó vẫn chưa được quy định rõ ràng trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Đổi mới sáng tạo là quá trình tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới và dịch vụ mới nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tạo ra giá trị gia tăng thông qua việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Quá trình này chủ yếu diễn ra tại các đơn vị sản xuất kinh doanh, bao gồm doanh nghiệp và hoạt động sản xuất của người dân.
Để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao, cần sự tham gia hỗ trợ từ nhiều thực thể khác.
Ví dụ như các quỹ đầu tư tài chính, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức trung gian, các dịch vụ tài chính, các tổ chức về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, cũng như các tổ chức dịch vụ sở hữu trí tuệ đều đóng vai trò quan trọng trong hoạt đổi mới sáng tạo.
Ngoài việc ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo còn yêu cầu phải thay đổi quy trình quản lý, sản phẩm, dịch vụ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chỉ việc mua sắm dây chuyền máy móc công nghệ mới mà không thay đổi các yếu tố khác sẽ không tạo ra giá trị gia tăng đáng kể.
Hoạt động đổi mới sáng tạo cần phải gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu phát triển và sản xuất kinh doanh. Do đó, các đề tài nghiên cứu nên được đặt hàng từ các bộ phận sản xuất kinh doanh, tức là từ doanh nghiệp, thay vì chỉ dựa vào các nhà khoa học tự đề xuất.
Việc sửa đổi Luật KH&CN lần này dự kiến sẽ thiết lập các hành lang pháp lý đầy đủ để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, đồng thời khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, cộng đồng và trong các cơ quan quản lý nhà nước. Những quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi nhằm thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo.
Tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động KHCN, đổi mới sáng tạo
Như Thứ trưởng nói, việc sửa đổi Luật KH&CN nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó doanh nghiệp là trung tâm và viện nghiên cứu cũng như trường đại học đóng vai trò là các chủ thể nghiên cứu mạnh. Vậy, những chính sách nào sẽ được đề xuất trong Luật sửa đổi sắp tới để hỗ trợ các đối tượng này?
Thứ trưởng Bùi Thế Duy: Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong các đề xuất sửa đổi Luật KH&CN, chúng tôi đã đưa ra một số nhóm chính sách mới.
Theo đó, các trường đại học đang dần trở thành những chủ thể nghiên cứu mạnh, tương đương với các viện nghiên cứu. Để phát triển hoạt động KH&CN trong các trường đại học, cần có nội dung nghiên cứu, nội dung hoạt động và thậm chí là kinh phí đầu tư cho các trường đại học.
Ví dụ, chúng ta cần có những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí từ KHCN. Thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới coi lực lượng nghiên cứu sinh là lực lượng nghiên cứu chủ yếu, bởi vì nghiên cứu sinh ở độ tuổi trẻ trung, sáng tạo nhất và say mê nhất trong công việc. Do đó, chúng ta cần xây dựng các hệ thống chương trình đào tạo nghiên cứu sinh, đồng thời coi họ là những nhà nghiên cứu, là người lao động nghiên cứu, chứ không chỉ là người đi học.
Ngoài ra, cần có các chương trình hỗ trợ sau khi nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình học. Điều này giúp họ có thể tiếp tục tự chủ trong việc triển khai các hoạt động nghiên cứu.
Chúng tôi rất mong muốn đề xuất tách biệt đội ngũ nghiên cứu của các viện nghiên cứu và trường đại học khỏi quan niệm coi họ như cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Giống như ở các nước trên thế giới, giảng viên và nghiên cứu viên được khuyến khích tham gia điều hành các doanh nghiệp do viện nghiên cứu và trường đại học thành lập, dựa trên kết quả nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của họ. Điều này giúp đưa hoạt động đổi mới sáng tạo từ doanh nghiệp đến gần hơn với trường đại học, thậm chí ngay trong trường đại học.
Chúng ta cũng sẽ khuyến khích thành lập các donh nghiệp khởi nguồn (spin-off) trong trường đại học. Những doanh nghiệp này không chỉ tạo nguồn thu cho trường đại học mà còn giúp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Thưa Thứ trưởng, việc tìm tiếng nói chung ra sao khi các nhà quản lý thường yêu cầu chi tiêu và quản lý ngân sách phải được thực hiện rất chặt chẽ, trong khi đó, các nhà khoa học cho rằng lĩnh vực KHCN có tính rủi ro, độ trễ và tính mạo hiểm, không phải lúc nào cũng cho kết quả ngay lập tức?
Thứ trưởng Bùi Thế Duy: Tất cả chúng ta đều mong muốn hoàn thành trách nhiệm của mình, ngân sách được chi tiêu một cách hiệu quả nhất, đúng đắn, không thất thoát hay lãng phí và không để tồn đọng kinh phí. Do đó, cần tìm cách cân bằng giữa hoạt động KHCN với những yêu cầu này. Đây là một trong những nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực hiện thường xuyên.
Ví dụ về vấn đề quản lý tài sản công, cần chia sẻ quan điểm rằng kinh phí Nhà nước đầu tư cho kết quả KHCN nên được xem là nguồn đầu tư lâu dài. Thay vì yêu cầu thanh toán ngay, nên giao kinh phí cho các đơn vị chủ trì và đơn vị sản xuất để họ có thể đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Khi các đơn vị này tạo ra việc làm và đóng thuế cho Nhà nước, chúng ta sẽ thu hồi nguồn vốn qua thuế và tái đầu tư cho hoạt động KHCN.
Để đạt được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan KHCN và cơ quan tài chính để hiểu nhau và phối hợp hiệu quả.
Chúng tôi dự kiến sẽ đề xuất trong dự án Luật các quy định về việc xác định cái gì là tài sản và cái gì không phải là tài sản trong kết quả KHCN. Ví dụ, những kết quả đã được công bố rộng rãi và trở thành tri thức của nhân loại không thể coi là tài sản riêng được.
Chúng tôi tin rằng việc chia sẻ quan điểm này sẽ giúp điều chỉnh hành lang pháp lý của Luật KH&CN, cũng như các luật khác, để chúng trở nên phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo.
Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
GS.TS. Nguyễn Hữu Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội: Chúng tôi rất kỳ vọng Luật sẽ tạo ra một hành lang pháp lý mới, tạo điều kiện phát triển và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Đây là lần đầu tiên chúng ta chính thức hóa khái niệm đổi mới sáng tạo và điều này sẽ giúp xây dựng một văn hóa mới cho người Việt Nam. Dù chúng ta thường nói về việc thay đổi căn bản và toàn diện, thì từ khóa quan trọng nhất vẫn là đổi mới sáng tạo. Điều này sẽ giúp chúng ta hội nhập và sánh vai với các cường quốc. Nếu không có sự thay đổi văn hóa này, mà chỉ giữ nguyên văn hóa lúa nước đã tồn tại 4.000 năm qua, thì đất nước Việt Nam sẽ khó có thể phát triển.
Hoàng Giang (thực hiện)