Lãi suất giảm trên toàn cầu tác động thế nào tới nền kinh tế?

Chuyên gia đánh giá việc cắt giảm lãi suất gần đây của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới có thể ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam.

 Hai ngân hàng trung ương lớn là ECB và BoC vừa thông báo cắt giảm lãi suất điều hành sau thời gian dài giữ ở mức cao. Ảnh: CNBC.

Hai ngân hàng trung ương lớn là ECB và BoC vừa thông báo cắt giảm lãi suất điều hành sau thời gian dài giữ ở mức cao. Ảnh: CNBC.

Việc cắt giảm lãi suất gần đây của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) là những động thái quan trọng báo hiệu xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ rộng hơn giữa các ngân hàng trung ương lớn.

Chính sách tiền tệ thế giới dần "xoay trục"

Ngày 5/6, BoC thông báo cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản xuống 4,75%, kết thúc của chuỗi tăng lãi suất nhằm chống lạm phát trước đó. Động thái này của BoC cũng là lời khẳng định sự hài lòng của giới chức trong việc kiểm soát lạm phát của quốc gia này.

Việc cắt giảm lãi suất của BoC dự kiến làm giảm chi phí vay cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, có khả năng kích thích hoạt động kinh tế và nới lỏng các điều kiện tài chính.

Chỉ 1 ngày sau đó, ECB thông báo giảm lãi suất tiền gửi cơ bản từ mức kỷ lục 4% xuống 3,75%, đánh dấu lần cắt giảm lãi suất đầu tiên kể từ năm 2019.

Tương tự BoC, quyết định này được ECB đưa ra sau khi chỉ số lạm phát của 20 quốc gia sử dụng chung đồng euro giảm từ hơn 10% vào cuối năm 2022 xuống gần mục tiêu 2% của ECB trong những tháng gần đây.

Tuy nhiên, ECB vẫn đưa ra lập trường thận trọng và báo hiệu quyết định chính sách tiền tệ tiếp theo sẽ phụ thuộc vào dữ liệu kinh tế mới. Điều này ngụ ý rằng việc cắt giảm lãi suất mang lại một số cứu trợ kinh tế ngay lập tức nhưng ECB sẵn sàng thắt chặt chính sách tiền tệ một lần nữa nếu cảm thấy sự đe dọa từ lạm phát.

 Hai ngân hàng trung ương lớn là ECB và BoC cùng thông báo cắt giảm lãi suất vào đầu tháng 6. Ảnh: ECB; BoC.

Hai ngân hàng trung ương lớn là ECB và BoC cùng thông báo cắt giảm lãi suất vào đầu tháng 6. Ảnh: ECB; BoC.

Khác với ECB và BoC, hiện Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn giữ nguyên mức lãi suất cơ bản ở mức 5,25-5,5%. Đây là lần thứ 7 cơ quan quản lý tiền tệ của nền kinh tế lớn nhất thế giới giữ nguyên lãi suất điều hành, cũng là vùng cao nhất trong vòng 23 năm qua.

Điều này phản ánh cách tiếp cận thận trọng của Fed trước các tín hiệu kinh tế trái chiều, đặc biệt là áp lực lạm phát dai dẳng. Cơ quan này nhấn mạnh các quyết định về lãi suất trong tương lai vẫn sẽ phụ thuộc vào dữ liệu việc làm và lạm phát sắp tới.

Tương tự, Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng đang duy trì lãi suất ở mức cao, hiện ở 5,25% do lo ngại lạm phát diễn ra, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ.

Trước đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã có sự thay đổi đáng kể khi lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ từ bỏ chính sách lãi suất âm. Hồi tháng 3, BoJ thông báo nâng lãi suất kỳ hạn ngắn lên mức 0-0,1%, từ mức âm 0,1% trước đó.

Động thái này kết thúc kỷ nguyên nới lỏng tiền tệ chưa từng có của Nhật Bản. BoJ thậm chí còn thảo luận về khả năng tiếp tục tăng lãi suất trong trường hợp đồng yen yếu đi làm lạm phát tăng cao.

Với Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC), cơ quan này đã tích cực hơn trong các biện pháp nới lỏng, cắt giảm lãi suất điều hành để hỗ trợ phục hồi kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng chậm lại và rủi ro giảm phát.

Kinh tế toàn cầu và Việt Nam chịu tác động gì?

Theo tiến sĩ Chu Thanh Tuấn, Phó chủ nhiệm nhóm ngành cử nhân Kinh doanh, Đại học RMIT, việc cắt giảm lãi suất của ECB và BoC sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu trong đó có Việt Nam.

 Tiến sĩ Chu Thanh Tuấn, Phó chủ nhiệm nhóm ngành cử nhân Kinh doanh, Đại học RMIT. Ảnh: NVCC.

Tiến sĩ Chu Thanh Tuấn, Phó chủ nhiệm nhóm ngành cử nhân Kinh doanh, Đại học RMIT. Ảnh: NVCC.

Cụ thể, sự khác biệt trong chính sách tiền tệ giữa các ngân hàng trung ương lớn sẽ ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Tại các quốc gia có chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ thấy chi tiêu và đầu tư của người tiêu dùng tăng lên, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại.

Trong khi đó, thương mại toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng do chênh lệch lãi suất tác động đến giá trị tiền tệ.

Ví dụ, đồng euro yếu hơn có thể khiến xuất khẩu từ các khu vực này trở nên cạnh tranh, có khả năng cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, nó lại làm tăng chi phí nhập khẩu, góp phần gây áp lực lạm phát.

Riêng với thị trường tài chính, lãi suất thấp hơn thường hỗ trợ giá cổ phiếu cao hơn bằng cách giảm chi phí vay của doanh nghiệp và tăng chi tiêu của người tiêu dùng. Nhưng xu hướng này gây ra sự biến động khi thị trường phản ứng với những thay đổi về chính sách tiền tệ và dữ liệu kinh tế.

Đặc biệt, thị trường trái phiếu có thể chứng kiến lợi suất dao động khi các nhà đầu tư điều chỉnh kỳ vọng dựa trên hành động của ngân hàng trung ương.

Việc cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương nhằm hỗ trợ hoạt động kinh tế, nhưng cũng sẽ phải "vật lộn" để cân bằng điều này với nguy cơ lạm phát nhen nhóm.

Chưa kể một số nền kinh tế nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng, nhưng lại có nền kinh tế thận trọng để tránh lạm phát. Sự thiếu phối hợp này dẫn đến phức tạp trong tương tác kinh tế toàn cầu, gồm cả dòng chảy thương mại và đầu tư.

"Điều này sẽ dẫn đến biến động tiền tệ và thay đổi động lực thương mại toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam", tiến sĩ Chu Thanh Tuấn đánh giá.

Trước việc cắt giảm lãi suất của ECB và BoC, Chính phủ cần thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt để đối phó với các cú sốc bên ngoài và duy trì ổn định kinh tế

Tiến sĩ Chu Thanh Tuấn, Phó chủ nhiệm nhóm ngành cử nhân Kinh doanh, Đại học RMIT

Vì thế, để giảm tác động, ông Tuấn đưa khuyến nghị Việt Nam có thể tăng cường chính sách thương mại thông qua việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; giảm phụ thuộc vào bất kỳ thị trường đơn lẻ nào bằng cách mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác.

Tiếp tục thúc đẩy tiêu dùng nội địa bằng cách xây dựng các chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước gồm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đầu tư vào các lĩnh vực hướng tới người tiêu dùng; chú trọng cải thiện cơ sở hạ tầng để hỗ trợ chuỗi cung ứng và logistics hiệu quả...

Ngoài ra, kinh tế Việt Nam có thể tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua môi trường đầu tư; pháp lý ổn định và có thể dự đoán được để thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài.

“Chính phủ cần thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt; giám sát tích cực thị trường tài chính toàn cầu và các biện pháp can thiệp thích hợp khi cần thiết. Đồng thời, xây dựng dự trữ ngoại hối để chống lại biến động tiền tệ và áp lực kinh tế bên ngoài”, ông Tuấn khuyến nghị thêm.

Hồng Nhung

Nguồn Znews: https://znews.vn/lai-suat-giam-tren-toan-cau-tac-dong-the-nao-toi-nen-kinh-te-post1481783.html