Huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho mục tiêu phát triển bền vững

Mặc dù đạt được nhiều tiến bộ trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam vẫn phải đối phó với nhiều thách thức. Để ứng phó với những thách thức, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, việc đáp ứng nhu cầu tài chính cần được ưu tiên hàng đầu, trong đó các giải pháp về huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước là cơ bản cho phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững

Trên thế giới, sau nửa thời gian thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp quốc (LHQ) vì sự phát triển bền vững (PTBV), tất cả các mục tiêu PTBV đều còn khoảng cách xa so với mục tiêu đề ra. Theo đánh giá mới nhất về tiến độ thực hiện mục tiêu PTBV trên toàn cầu của Liên Hợp quốc, hiện chỉ có 17% chỉ tiêu PTBV đang đúng tiến độ, 83% các chỉ tiêu còn lại đang bị chậm tiến độ, thậm chí bị đẩy lùi so với năm 2015 (Báo cáo về tiến độ thực hiện các mục tiêu PTBV của LHQ tại Diễn đàn chính trị cấp cao về PTBV (HLPF) 2024).

So sánh với quốc tế, Việt Nam được đánh giá là một điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu PTBV. Trên phạm vi toàn cầu, thứ hạng của Việt Nam về kết quả thực hiện các mục tiêu PTBV liên tục tăng lên trong giai đoạn 2016-2024. Theo đó, Việt Nam từ xếp hạng 88/149 nước năm 2016 đã tăng lên 54/166 quốc gia được xếp hạng năm 2024.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024), việc thực hiện các mục tiêu PTBV ở Việt Nam trong năm 2023 tiếp tục đạt được một số kết quả nhất định, thể hiện ở một số chỉ tiêu nổi bật: Tỷ lệ nghèo đa chiều tiếp tục giảm, đạt 3,2% (giảm 1% so với cuối năm 2022); Tỷ lệ lao động thất nghiệp là 2,28%, 92% khu công nghiệp đang hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động đạt tiêu chuẩn môi trường; Tăng trưởng GDP năm 2024 đạt trên 7%; Tỷ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tiếp tục tăng, đạt 78%; Tỷ lệ che phủ rừng tiếp tục duy trì mục tiêu đề ra, đạt 42%...

Chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững

Hình 1: Xếp hạng chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam giai đoạn 2017-2024

Nguồn: Báo cáo Phát triển bền vững (https://dashboards.sdgindex.org/rankings)

Nguồn: Báo cáo Phát triển bền vững (https://dashboards.sdgindex.org/rankings)

Hình 2: Bố trí chi NSNN cho sự nghiệp bảo vệ môi trường ở Việt Nam 2013-2024

 Nguồn: Bộ Tài chính

Nguồn: Bộ Tài chính

Thời gian qua, nhiều chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính từ NSNN đã được ban hành, hoàn thiện hướng tới thực hiện các mục tiêu PTBV.

Chính sách huy động nguồn lực tài chính

Việt Nam đã thực hiện cải cách mạnh mẽ khung khổ pháp luật về tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN) để khơi thông nguồn lực cho PTBV với các nhiệm vụ cụ thể như: (i) Thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ; (ii) Điều tiết hành vi theo hướng khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT); (iii) Bảo đảm nguồn thu quan trọng và ổn định cho NSNN theo hướng bền vững hơn, tăng dần tỷ trọng nguồn thu thuế từ sản xuất, kinh doanh trong tổng thu NSNN; (iv) Nâng cao hiệu quả quản lý thu NSNN. Hệ thống các luật về thuế, phí và lệ phí liên tục được rà soát, hoàn thiện và thực hiện theo lộ trình đề ra, đảm bảo minh bạch, đơn giản, phù hợp với các cam kết về hội nhập quốc tế, góp phần tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng thời góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các chính sách liên quan đến động viên nguồn lực từ tài nguyên, khoáng sản cũng được bổ sung và hoàn thiện, góp phần đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống thuế đồng bộ góp phần tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng, nâng cao ý thức BVMT của toàn xã hội và tạo nguồn thu để giải quyết vấn đề môi trường.

Công tác huy động các nguồn vốn khác như trái phiếu chính phủ (TPCP), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã góp phần bổ sung nguồn lực quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Công tác phát hành TPCP được gắn với tái cơ cấu nợ Chính phủ thông qua việc tập trung phát hành ở các kỳ hạn dài và đa dạng hóa nhà đầu tư, góp phần đảm bảo cân đối, tăng hiệu quả quản lý NSNN và quản lý nợ công...

Sử dụng các nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho các mục tiêu phát triển bền vững

Các chính sách chi NSNN bám sát chủ trương, định hướng tái cơ cấu nền kinh tế, tăng hợp lý tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tăng chi cho con người, chi phát triển hệ thống an sinh xã hội (ASXH), chi phát triển lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ (KHCN), y tế... góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nền kinh tế. Nguồn lực NSNN kết hợp với thu hút các nguồn vốn khác đã phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng KT-XH, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội.

Nguồn vốn đầu tư phát triển cũng đưa ra các ưu tiên cho các ngành, lĩnh vực xã hội liên quan đến PTBV như kế hoạch đầu tư công trung hạn đã ưu tiên vốn đầu tư NSNN cho các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ và các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; các nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống, khắc phục tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, sự cố ô nhiễm môi trường biển. Một số chương trình, dự án đã có sự phối hợp giữa các nguồn vốn NSNN, TPCP và các nguồn hỗ trợ nước ngoài khác để tăng cường hiệu quả các dự án tăng trưởng xanh và tận dụng nguồn lực vốn hỗ trợ, đặc biệt là hoạt động kỹ thuật cho các chương trình dự án về BVMT, tiết kiệm năng lượng và năng lượng sạch.

Đối với một số nhiệm vụ chi cụ thể như chi NSNN cho sự nghiệp môi trường, NSNN bố trí mức chi hàng năm không thấp hơn 1% tổng chi NSNN (bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương). Khoản kinh phí này nhằm hỗ trợ các nhiệm vụ BVMT theo dự án, thực hiện phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường quốc gia; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn về BVMT; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về BVMT.

Chi phát triển lĩnh vực giáo dục đào tạo GDĐT, KHCN, y tế cũng được ưu tiên nhằm nâng cao năng suất lao động, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Ở góc độ KHCN, thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 (về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế), từ giai đoạn 2012 đến nay, mặc dù điều kiện NSNN còn gặp nhiều khó khăn nhưng bố trí chi NSNN cho phát triển hoạt động KHCN đã cơ bản đảm bảo được mục tiêu đề ra. Đến nay, NSNN vẫn là nguồn lực chủ đạo đầu tư cho hoạt động KHCN. Đối với lĩnh vực GDĐT, NSNN chi cho GDĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách cho phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, theo Nghị quyết số 18/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 thực hiện bố trí tăng chi cho lĩnh vực y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của NSNN. Trong năm 2024, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 04/01/2024 về tăng cường tiết kiệm chi NSNN đã yêu cầu các bộ cơ quan trung ương, địa phương thực hiện cắt giảm, tiết kiệm 5% dự toán chi thường xuyên so với dự toán được giao ngay từ đầu năm 2024 để tăng cho đầu tư hạ tầng, chiến lược, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu và ASXH.

Đồng thời, chính sách chi tiếp tục được mở rộng, đảm bảo ổn định đời sống cho người dân như thực hiện tăng lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng từ ngày 01/7/2024; tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng từ ngày 01/7/2024…

Kết quả huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước thực hiện mục tiêu phát triển bền vững

Huy động nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước

Nguồn lực tài chính công ngày càng được tăng cường: Trong giai đoạn 2021-2024, mặc dù tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường nhưng thu NSNN đã vượt kế hoạch đề ra. Tổng thu NSNN giai đoạn 2021 - 2024 ước đạt hơn 7 triệu tỷ đồng. Quy mô động viên vào NSNN bình quân giai đoạn 2021 - 2024 đạt khoảng 18% GDP điều chỉnh, cao hơn mục tiêu 16% GDP tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội.

Cơ cấu thu NSNN giai đoạn vừa qua ngày càng bền vững hơn, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN ngày càng chiếm tỷ trọng cao (tỷ trọng trong giai đoạn 2011 - 2020 là 76,7%; năm 2021 đạt khoảng 82,52%; năm 2022 đạt khoảng 79,5%; năm 2023 đạt khoảng 83,9%; năm 2024 ước đạt 83,9%). Cơ cấu thu theo sắc thuế có sự chuyển dịch tích cực, phù hợp với hệ thống thuế hiện đại, hội nhập theo thông lệ quốc tế. Quy mô thu NSNN từ các khoản thu liên quan đến nhà, đất ở Việt Nam trong tổng thu NSNN có xu hướng tăng trong những năm qua đảm bảo nguồn lực cho ngân sách địa phương thực hiện các nhiệm vụ về phát triển KT-XH trên địa bàn, cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cung ứng cho người dân.

Số thu từ thuế tài nguyên trong giai đoạn 2021- 2024 chiếm gần 2% tổng thu NSNN, đã góp phần ổn định nguồn thu thuế nội địa. Biểu thuế suất thuế tài nguyên hiện hành của Việt Nam đã thể hiện quan điểm khai thác tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế khai thác tài nguyên trong nước để đảm bảo nguồn cung cho sản xuất trong nước và thực hiện dự trữ quốc gia, góp phần thực hiện mục tiêu PTBV. Ngoài ra, nguồn thu từ thuế BVMT trong giai đoạn 2021-2024 cũng chiếm khoảng 3,7% tổng thu NSNN, tạo thêm nguồn lực để đầu tư cho tăng trưởng xanh, bù đắp chi phí cho hoạt động BVMT.

Công tác huy động nguồn lực từ TPCP và ODA chủ động, hiệu quả, đạt nhiều điểm tích cực. Tính đến cuối năm 2024, đã phát hành khoảng 325,806 nghìn tỷ đồng TPCP, kỳ hạn bình quân 11,07 năm (cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là từ 9 - 11 năm), lãi suất bình quân 2,52%/năm. Lãi suất phát hành bình quân TPCP giảm từ mức 4,51%/năm năm 2019 xuống mức 2,52% năm 2024 giúp giảm chi phí trả lãi của ngân sách trung ương. Cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường TPCP được tái cơ cấu hiệu quả, cải thiện theo hướng tăng tỷ trọng nắm giữ trái phiếu của các nhà đầu tư dài hạn như: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư tài chính, góp phần giúp thị trường trái phiếu tăng tính cạnh tranh, giảm thiểu tác động của các biến động ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh ngân sách còn hạn hẹp do tăng trưởng chưa phục hồi, nguồn vốn ODA và vốn vay nước ngoài đã tạo động lực phát triển cho nền kinh tế với các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, có tình chất lan tỏa và liên kết vùng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông, năng lượng và công nghiệp, phát triển hạ tầng đô thị (giao thông đô thị, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường...).

Sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước

Chi NSNN được kiểm soát trong phạm vi thu ngân sách, đảm bảo các ưu tiên cho PTBV. Tổng chi NSNN giai đoạn 2021 - 2024 ước đạt khoảng 7,85 triệu tỷ đồng. Quy mô chi NSNN so với GDP bình quân giai đoạn 2021 - 2024, bình quân ước đạt 19,6% GDP điều chỉnh; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi phát sinh theo tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, ASXH và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn.

Cơ cấu chi NSNN có nhiều điểm tích cực, ưu tiên dành nguồn lực tăng chi đầu tư: Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trung bình giai đoạn 2021-2024 đạt khoảng gần 32,8% tổng chi NSNN (cao hơn mục tiêu tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội là 28%). Đây là nỗ lực lớn và kết quả quan trọng của công tác cơ cấu lại NSNN, đặc biệt là ngân sách trung ương còn khó khăn, các nhiệm vụ chi cải cách tiền lương và ASXH hằng năm vẫn tăng mạnh. Hệ thống đường giao thông, hạ tầng kỹ thuật đô thị, hạ tầng nông nghiệp - nông thôn, khu kinh tế, khu công nghiệp, hạ tầng giáo dục và đào tạo, KHCN... tiếp tục được củng cố và phát triển, có ý nghĩa lớn đối với phát triển KT-XH. Chi NSNN kết hợp với các nguồn lực xã hội huy động được đã phát triển mạnh mẽ kết cấu hạ tầng, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số... là nền tảng cho phát triển kinh tế và giải quyết đói nghèo, góp phần tích cực giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ sự nghiệp công có nhiều cải thiện.

Tỷ trọng chi thường xuyên giai đoạn 2021 - 2024 đạt khoảng 57,9% tổng chi thấp hơn mục tiêu tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội (62%-63%); bảo đảm kinh phí để thực hiện các chế độ, chính sách chi cho cán bộ, công chức, các chính sách ASXH...

Bên cạnh đó, tuy NSNN còn nhiều khó khăn nhưng vẫn đảm bảo các nhiệm vụ chi chiến lược cho mục tiêu PTBV. NSNN tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đảm bảo phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy triệt để nguồn lực con người trong việc thúc đẩy phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời, chi cho KHCN cũng là một trong những nhiệm vụ chi quan trọng nhằm tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao năng lực công nghệ của các ngành công nghiệp, khuyến khích sáng chế phát minh; tăng đầu tư cho nghiên cứu và triển khai...

Trong điều kiện NSNN còn nhiều khó khăn, cân đối chi NSNN cho sự nghiệp BVMT giai đoạn 2016 - 2024 luôn được bố trí ưu tiên đảm bảo đúng quy định, năm sau cao hơn năm trước về số tuyệt đối; đảm bảo bố trí tối thiểu bằng 1% tổng chi NSNN cho hoạt động sự nghiệp BVMT cho các mục tiêu môi trường PTBV.

Cùng với nhiệm vụ chi cho BVMT, chi NSNN cho sự nghiệp y tế cũng được bố trí bảo đảm tốc độ tăng chi hằng năm cao hơn tốc độ tăng chi NSNN; bảo đảm đủ kinh phí để hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách khác; đảm bảo người dân được tiếp cận dịch vụ y tế; từng bước nâng cao chất lượng, công bằng trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Một số thách thức đặt ra

Xét ở góc độ tổng thể, việc thực hiện các mục tiêu PTBV ở Việt Nam đến năm 2030 còn nhiều khó khăn, thách thức trên cả 3 trụ cột kinh tế - xã hội – môi trường. Nền kinh tế vẫn phải đối mặt với các thách thức như năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu, phát triển KHCN còn hạn chế chưa tạo thành động lực tăng trưởng. Các chính sách xã hội còn chưa bao phủ hết các nhóm đối tượng; triển khai chưa đồng bộ; Chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng gia tăng, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn...

Về huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính từ NSNN vẫn tồn tại một số vấn đề, thách thức:

Thứ nhất, tính ổn định, bền vững của thu NSNN chưa cao. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN có xu hướng giảm từ mức 85,2% năm 2020 xuống 82,5% và 79,5% và 83,8% lần lượt trong 3 năm 2021, 2022, 2023 (số ước thực hiện). Nguyên nhân do trong những năm vừa qua, kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình SXKD của doanh nghiệp và thực hiện các giải pháp về giãn, giảm, gia hạn thuế. Thu NSNN còn dựa nhiều vào các khoản thu từ vốn, các khoản thu có tính chất một lần, không tái tạo (như thu tiền sử dụng đất năm 2024 chiếm hơn 11% tổng thu NSNN).

Thứ hai, thách thức giảm thu NSNN từ các FTA. Việc thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan theo các FTAs trong thời gian qua đã có những ảnh hưởng nhất định tới số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tỷ trọng thu từ thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu trong tổng thu NSNN giảm từ mức 9,1% năm 2011 xuống mức 5,7% năm 2017; 4,1% năm 2022 và 3% năm 2023, 2024.

Thứ ba,chi phí huy động vốn vay nước ngoài có xu hướng tăng dần từ khi Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình, khả năng tiếp cận với vốn vay có điều kiện ưu đãi giảm dần. Đồng thời, những biến động mạnh trên thị trường ngoại hối quốc tế cũng làm tăng giá đồng USD so với VND, gây sức ép đối với việc trả nợ và chi phí huy động đối với các khoản vay bằng đồng USD.

Thứ tư, hiệu lực, hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực công còn hạn chế, tỷ trọng chi thường xuyên giảm nhưng còn cao. Cơ cấu lại đầu tư công theo Nghị quyết số 07-NQ/TW còn dàn trải, giải ngân vốn đầu tư còn chậm. Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương còn chậm.

Thứ năm, dù NSNN đã ưu tiên kinh phí cho lĩnh vực BVMT nhưng chưa thể bảo đảm đủ kinh phí giải quyết các vấn đề môi trường.

Tăng cường huy động và sử dụng nguồn lực cho mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030

Trong thời gian tới, để đảm bảo mục tiêu PTBV đến năm 2030, một số giải pháp tài chính cần được thực hiện là:

Một là, tập trung đẩy mạnh việc hoàn thiện các thể chế chính sách tài chính-NSNN nhằm tăng cường hiệu quả huy động và phân bổ nguồn lực tài chính, hướng đến đạt được sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 trụ cột của PTBV, bao gồm tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Hoàn thiện các chính sách tài chính - NSNN nhằm BVMT, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xanh.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu NSNN, đảm bảo sự bền vững của quy mô và cơ cấu thu NSNN; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thu; đi đôi với cơ cấu lại thu NSNN hướng tới một hệ thống thu NSNN hỗ trợ tích cực cho tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khuyến khích đầu tư, tăng cường cạnh tranh, đồng thời tạo nguồn thu hợp lý, bền vững cho NSNN

Ba là, nâng cao hiệu quả và cơ cấu lại chi NSNN theo hướng bền vững, ưu tiên nguồn lực tăng chi đầu tư phát triển, tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Nhà nước phục vụ các mục tiêu phục hồi và phát triển KT-XH, an ninh, quốc phòng. Nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính, NSNN, gắn với đề cao trách nhiệm của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương; khắc phục tình trạng phân bổ vốn đầu tư công dàn trải, kéo dài, đặc biệt là nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, gắn hiệu quả sử dụng vốn đầu tư với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Bốn là, sử dụng hiệu quả và thúc đẩy giải ngân nguồn vốn đầu tư công, cải thiện vai trò dẫn dắt, vốn mồi của nguồn lực NSNN; thực hiện đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị đồng bộ, hiện đại, xanh và thân thiện với môi trường. Tăng cường nguồn lực chi đầu tư phát triển con người nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng năng suất lao động, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế. Cải cách chính sách tiền lương, đảm bảo nguồn lực tiếp tục thực hiện tốt chính sách ASXH, tạo điều kiện tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản cho mọi người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế như trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số... phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế và khả năng cân đối của NSNN. Nâng cao hiệu quả và nguồn lực chi NSNN cho bảo vệ môi trường và nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng NSNN cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 1/2025

TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính)

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/huy-dong-va-su-dung-nguon-luc-tai-chinh-tu-ngan-sach-nha-nuoc-cho-muc-tieu-phat-trien-ben-vung.html