Huy động nguồn lực tài chính cho phát triển năng lượng bền vững

Để hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và đáp ứng nhu cầu đầu tư hơn 136 tỷ USD cho giai đoạn 2026-2030, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược tài chính đồng bộ - từ khung giá điện ổn định đến khai thác tối đa tài chính xanh - nhằm huy động vốn dài hạn, bền vững cho kỷ nguyên năng lượng tái tạo (NLTT).

Đầu tư phát triển năng lượng cần nguồn vốn lớn, dài hạn. Ảnh minh họa

Đầu tư phát triển năng lượng cần nguồn vốn lớn, dài hạn. Ảnh minh họa

Nhiều thách thức trong huy động nguồn lực tài chính

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên chuyển đổi năng lượng với Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh và cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đất nước sở hữu tiềm năng tái tạo dồi dào: Bờ biển dài hơn 3.000km cho điện gió biển, hàng trăm nghìn hécta đất đồng bằng và khu công nghiệp phù hợp cho điện mặt trời áp mái và mặt đất. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, tổng nhu cầu vốn ước tính lên tới 136,3 tỷ USD giai đoạn 2026-2030, vượt xa khả năng rót vốn từ ngân sách nhà nước. Bởi vậy, việc thu hút và huy động vốn tư nhân, vốn nước ngoài và kênh tài chính xanh để bù đắp phần thiếu hụt đóng vai trò quyết định.

Theo Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt khoảng 560,4-624,6 tỷ kWh; công suất cực đại đạt 89.655-99.934 MW.

Chỉ ra những thách thức, TS. Nguyễn Anh Tuấn - Ngân hàng Phát triển Việt Nam - khẳng định rằng, thiếu các chính sách dài hạn, nhất quán và đồng bộ chính là rào cản lớn nhất đối với việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực năng lượng của Việt Nam. Ông Tuấn dẫn chứng cơ chế giá hỗ trợ (FIT) dành cho điện mặt trời và điện gió: Dù ban đầu phát huy tác dụng mạnh mẽ, thúc đẩy hàng loạt dự án vào vận hành, nhưng việc áp dụng không liên tục đã khiến làn sóng đầu tư mới chững lại rõ rệt.

Sự biến động của các ưu đãi chính sách không chỉ tạo ra rủi ro pháp lý mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn và hiệu quả sinh lời dài hạn của các dự án năng lượng tái tạo. Trong bối cảnh này, các nhà đầu tư - đặc biệt là những dự án cần nguồn vốn lớn và thời gian hoàn vốn dài - ưu tiên sự dự đoán, ổn định chính sách hơn là lợi nhuận cao trong ngắn hạn. “Sự đứt quãng trong cơ chế, chính sách không chỉ làm nản lòng nhà đầu tư mới mà còn dẫn tới tình trạng nguồn lực hiện có bị "đắp chiếu", xói mòn niềm tin vào thị trường, khiến các nỗ lực huy động vốn trong tương lai càng gặp phải rào cản lớn,” ông Tuấn nhấn mạnh.

Một điểm nghẽn khác trong chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam là hạ tầng truyền tải phát triển không đồng bộ với tốc độ mở rộng nhanh chóng của các nguồn NLTT. Sự mất cân bằng này dẫn đến những bất cập trong vận hành, điển hình là tình trạng cắt giảm công suất: nhiều nhà máy điện gió và điện mặt trời buộc phải giảm sản lượng lên đến 60% do quá tải lưới truyền tải.

Việc cắt giảm công suất không chỉ lãng phí đáng kể nguồn lực xã hội mà còn làm giảm lợi nhuận dự án và tăng rủi ro vận hành, trở thành rào cản lớn cho các khoản đầu tư tiếp theo vào NLTT. Nếu không khắc phục kịp thời hạn chế về cơ sở hạ tầng này, ngay cả các cơ chế tài chính mạnh mẽ dành cho dự án phát điện cũng sẽ bị suy yếu bởi bất cập trong vận hành, làm giảm khả năng sinh lời kinh tế và chậm tiến trình chuyển đổi năng lượng.

Ngoài hai điểm nghẽn chính sách và hạ tầng, các chuyên gia cũng chỉ ra rằng nhà đầu tư vào dự án năng lượng tái tạo đang gặp khó khăn đáng kể trong việc tiếp cận tín dụng. Đặc tính phức tạp về công nghệ, cấu trúc tài chính và hợp đồng mua bán điện dài hạn của NLTT khiến cán bộ thẩm định tín dụng ngân hàng gặp trở ngại lớn khi đánh giá hiệu quả dự án cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Hơn thế, các dự án NLTT thường đòi hỏi nguồn vốn rất lớn và kỳ hạn vay dài, trong khi phần lớn nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng mang tính ngắn hạn, dẫn đến khó khăn trong việc cân đối cơ cấu vốn để tài trợ cho các khoản đầu tư này…

Đồng bộ giải pháp để huy động nguồn vốn lớn

Các chuyên gia nhận định, năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,3-8,5% và hướng tới mức tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030. Điều này đồng nghĩa với nhu cầu điện năng dự báo tăng gần 1,5 lần, tương ứng mức tăng 12-16% mỗi năm. Đây là thách thức lớn, nếu không có giải pháp kịp thời để phát triển nguồn năng lượng, đặc biệt là NLTT, nguy cơ thiếu điện giai đoạn 2026-2030 là hiện hữu. Trong bối cảnh này, việc huy động nguồn lực cho phát triển năng lượng có ý nghĩa quyết định đối với thành công của các mục tiêu tăng trưởng.

Ông Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thể chế hóa quy định về NLTT, đồng thời tối ưu hóa chính sách đất đai và thuế. Trước hết, về cơ chế giá, cần thiết lập các chính sách giá điện linh hoạt, minh bạch, phản ánh sát chi phí đầu vào, nhằm thúc đẩy một thị trường điện cạnh tranh thực chất. Với chính sách đất đai và thuế, cần có ưu đãi rõ ràng, nhất quán, thiết kế riêng cho các dự án NLTT, bao gồm miễn, giảm phí sử dụng đất cả giai đoạn xây dựng và vận hành, cùng các ưu đãi thuế cạnh tranh như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng. Đặc biệt, cần nâng tầm phát triển NLTT lên khuôn khổ pháp lý cao nhất, chẳng hạn xây dựng “Luật về NLTT”, để thu hút đầu tư dài hạn.

“Một khuôn khổ chính sách ổn định, minh bạch về giá, rõ ràng về pháp lý, đất đai và thuế sẽ là công cụ giảm rủi ro toàn diện nhất cho nhà đầu tư - yếu tố then chốt để thu hút nguồn vốn lớn, dài hạn cho các dự án năng lượng, nơi lợi nhuận phải được tính toán trên chu kỳ nhiều thập kỷ”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Theo bà Nguyễn Phương Thảo - Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, các nguồn vốn từ tài chính xanh như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh, tín dụng xanh… là kênh huy động đa dạng, giàu tiềm năng cho ngành năng lượng. Cách tiếp cận này vừa cung cấp nguồn lực tài chính dài hạn, vừa thúc đẩy đầu tư vào các dự án thân thiện môi trường, dù có độ rủi ro cao.

Bà Thảo khuyến nghị, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu xanh hướng vào năng lượng; đồng thời khuyến khích ngân hàng thương mại thiết kế sản phẩm tín dụng xanh cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mô hình kết hợp vốn công - tư, trong đó vốn công đóng vai trò “đòn bẩy” hoặc “giảm rủi ro” để khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt với các dự án có suất đầu tư lớn, khó triển khai.

Chính phủ cũng cần phát triển cơ chế chia sẻ rủi ro (vốn mồi, bảo lãnh tín dụng, đồng tài trợ) và đẩy mạnh các mô hình tài chính đối tác công - tư (PPP) để thu hút dòng vốn tư nhân tham gia lĩnh vực năng lượng./.

TUẤN MINH

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/huy-dong-nguon-luc-tai-chinh-cho-phat-trien-nang-luong-ben-vung-42856.html