'Hồi sinh' nghệ thuật truyền thống: Làm gì để 'giữ chân' người trẻ yêu văn hóa?
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển mạnh mẽ của văn hóa đương đại, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trở thành thách thức.

Tác phẩm 'Trống Cơm' do Cường Seven, Soobin Hoàng Sơn, và Tự Long trình diễn tại 'Anh trai vượt ngàn chông gai' đã gây ấn tượng mạnh cho khán giả. Ảnh: ATVNTG.
Gặp khó giữa thời đại số
Một thực tế đáng buồn, trong nhiều năm qua, cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật luôn gặp khó khăn trong việc tuyển sinh các chuyên ngành nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc,... tìm kiếm những tài năng trẻ thực sự đam mê và sẵn sàng gắn bó với con đường nghệ thuật truyền thống.
TS.NSND Triệu Trung Kiên - Giám đốc Nhà hát Cải lương Việt Nam cho biết, tại các trường đào tạo tài năng nghệ thuật như Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, Đại học Sân khấu - Điện ảnh TPHCM nhiều năm nay không có thí sinh thi tuyển vào các lớp diễn viên, nhạc công tuồng và cải lương.
“Việc thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trẻ kế cận là nguy cơ lớn chưa có giải pháp khắc phục. Các nhà hát hiện nay cũng gặp muôn vàn khó khăn về ngân sách eo hẹp, chỉ tiêu biên chế ít lại luôn phải cắt giảm, sự bất hợp lý về độ tuổi nghỉ hưu và tuổi hưởng lương hưu do số lượng nghệ sĩ hết tuổi nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ chế độ đã khiến cho các đơn vị không còn chỗ trống để tiếp nhận lực lượng trẻ”, NSND Triệu Trung Kiên cho biết.
Ghi nhận tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, năm 2023 chuyên ngành kịch hát dân tộc có số lượng học viên đầu vào với số lượng là 10 người. Chuyên ngành diễn viên cải lương, diễn viên rối không có thí sinh đăng ký dự thi. Bước sang năm 2024, tình hình đã cải thiện hơn khi có 10 thí sinh đạt tiêu chuẩn ngành diễn viên cải lương, 18 người đạt điểm chuẩn diễn viên chèo, tuy nhiên vẫn không có thí sinh đăng ký dự thi diễn viên rối.
Theo các chuyên gia trong nghề, thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đặc thù của các ngành nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống đòi hỏi quá trình tuyển chọn năng khiếu khắt khe, nhằm đảm bảo chất lượng đầu vào và khả năng phát triển của học viên. Điều này vô tình tạo ra một “rào cản” đối với người trẻ có đam mê, nhưng chưa tự tin vào khả năng của mình.
Thêm vào đó, chi phí đào tạo các ngành nghệ thuật này thường khá lớn, do yêu cầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giảng viên chuyên môn cao. Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, không phải gia đình nào cũng có đủ điều kiện để cho con em theo đuổi đam mê nghệ thuật.
Đồng thời, phương pháp dạy và học trong các ngành nghệ thuật truyền thống có nhiều điểm khác biệt so với các ngành học khác. Yêu cầu cao về tính kỷ luật, sự khổ luyện và khả năng tiếp thu kiến thức chuyên sâu khiến nhiều bạn trẻ cảm thấy nản lòng.
Bên cạnh đó, thời gian đào tạo kéo dài, thường từ 4 đến 6 năm, cũng là một yếu tố khiến nhiều bạn trẻ e ngại. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi mà sự nghiệp và thu nhập được đặt lên hàng đầu, việc dành quá nhiều thời gian cho việc học tập nghệ thuật truyền thống có thể được coi là một sự “đầu tư mạo hiểm”.
Đặc biệt, không thể phủ nhận rằng, sự thay đổi mạnh mẽ trong nhu cầu và sở thích của giới trẻ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và các nền tảng số đã mang đến cho giới trẻ vô vàn lựa chọn giải trí, từ âm nhạc hiện đại, điện ảnh, đến các trò chơi điện tử, mạng xã hội...
Những loại hình giải trí này thường có nội dung hấp dẫn, hình thức bắt mắt và dễ dàng tiếp cận, đáp ứng nhu cầu giải trí nhanh chóng và đa dạng của giới trẻ. Trong khi đó, các loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương,... lại thường bị coi là “khó tiếp cận”, “lỗi thời” và “không phù hợp” với gu thẩm mỹ của người trẻ.
Một lý do khác là sự thiếu hụt trong việc quảng bá và tiếp thị các loại hình nghệ thuật truyền thống. Trong khi các sản phẩm văn hóa đương đại được đầu tư mạnh mẽ về quảng cáo và truyền thông, thì các loại hình nghệ thuật truyền thống lại thường bị bỏ quên, hoặc chỉ được quảng bá một cách hạn chế trên các kênh truyền thông truyền thống. Điều này khiến cho giới trẻ ít có cơ hội tiếp xúc và tìm hiểu về nghệ thuật truyền thống, dẫn đến sự thiếu hiểu biết.

Nữ ca sĩ Hòa Minzy và ê-kíp sản xuất MV nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh về những cống hiến trong hoạt động quảng bá du lịch. Ảnh: Hòa Minzy.
Nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Dù vẫn còn không ít thử thách, nhưng không thể phủ nhận rằng vẫn có một bộ phận người trẻ đang nhiệt huyết tìm hiểu và trân trọng nghệ thuật truyền thống. Họ là những tâm hồn thức tỉnh, mang trong mình niềm tự hào về giá trị văn hóa dân tộc, và khao khát đóng góp vào việc bảo tồn, gìn giữ, cũng như phát huy những di sản quý báu ấy.
Sau 5 ngày ra mắt, MV “Bắc Bling” của nữ ca sĩ Hòa Minzy đã thu về hơn 20 triệu lượt xem, tiếp tục nắm giữ top 1 trending (xu hướng) trên bảng xếp hạng âm nhạc của Việt Nam và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore, Úc,... Tác phẩm đã tạo nên một cơn sốt mạnh mẽ, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người hâm mộ bởi một chủ đề xuyên suốt: Chất liệu dân gian, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước.
Theo soạn giả, nhà báo Mai Văn Lạng - Trưởng phòng Dân ca và Nhạc cổ truyền, Đài Tiếng nói Việt Nam, “Bắc Bling” gây ấn tượng mạnh bởi ngôn từ trau chuốt, giàu tính nghệ thuật. “Chỉ cần nghe ca từ đã thấy cuốn hút rồi, vần nối vần, ý nối ý. Nghe ‘Bắc Bling’ có cảm giác như đang nghe ca dao, nhưng ca dao ấy lại được rap theo phong cách xẩm và dân ca cổ truyền”, ông chia sẻ.
Bằng các cảnh quay được thực hiện tại những địa danh giàu giá trị lịch sử như: Đền Đô, chùa Dâu, đền Bà Chúa Kho, làng gốm Phù Lãng, cùng sự xuất hiện của nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như: Quan họ, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ..., MV đã góp phần không nhỏ lan tỏa vẻ đẹp văn hóa và cảnh quan Bắc Ninh.

NSND Thu Huyền trong vở kịch 'Thị Mầu'. Ảnh chụp từ vở diễn.
“Rất may mắn trong quá trình tìm hiểu thông tin, chúng tôi biết được Bắc Ninh là một vùng đất quá dồi dào chất liệu. Từ những di tích lịch sử, đền chùa, làng nghề truyền thống, các trò chơi dân gian, các lễ hội, con người, phục trang đều rất đậm chất kinh bắc và là thứ chất liệu hoàn hảo để có thể xào nấu và sáng tạo.
Từ những chất liệu có sẵn, chúng tôi xác định không làm MV chỉ mang tính liệt kê, điểm mặt chỉ tên mà muốn mang đến một làn gió mới, sự kết hợp giữa truyền thống và hơi thở của thời đại”, đạo diễn Nhu Đặng chia sẻ trên trang cá nhân về dự án.
Không chỉ là một sản phẩm âm nhạc tạo nên cơn sốt trên các nền tảng số, “Bắc Bling” còn mang đến một góc nhìn mới về vai trò của nghệ sĩ trong việc quảng bá văn hóa và du lịch. MV này nhanh chóng được lan tỏa và cộng đồng mạng không chỉ khen ngợi sự sáng tạo của ê-kíp mà còn bày tỏ niềm tự hào khi một sản phẩm âm nhạc có thể truyền tải văn hóa Việt Nam một cách tinh tế. Sau khi xem “Bắc Bling”, nhiều người trong cộng đồng mạng bày tỏ mong muốn mỗi tỉnh thành nên có một ca sĩ thực hiện MV về quê hương của mình.
MV ca nhạc những năm gần đây nổi lên như một phương tiện truyền tải văn hóa hiệu quả đến giới trẻ. Âm nhạc và hình ảnh, với khả năng lan tỏa nhanh chóng trên các nền tảng trực tuyến, trở thành ngôn ngữ phổ quát, dễ dàng tiếp cận và gây ấn tượng. Thông qua MV, những câu chuyện hấp dẫn về văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam được kể lại một cách sinh động và hấp dẫn.
Điển hình, MV “Để Mị nói cho mà nghe” (Hoàng Thùy Linh) đã khéo léo kết hợp chất liệu âm nhạc dân gian Tây Bắc với beat điện tử hiện đại, tái hiện trang phục, lễ hội, phong tục tập quán của người H'Mông một cách sáng tạo, đồng thời truyền tải thông điệp về giải phóng phụ nữ và khẳng định giá trị của văn hóa truyền thống.
Tương tự, “Gieo Quẻ” (Hoàng Thùy Linh) lại mang đến một không gian âm nhạc đậm chất ca trù, xẩm, kết hợp yếu tố tín ngưỡng dân gian và điển tích lịch sử, qua đó gửi gắm thông điệp về việc vận dụng tri thức cổ truyền để giải quyết vấn đề trong cuộc sống hiện đại. Chính sự hòa trộn tinh tế giữa yếu tố dân tộc và yếu tố đương đại (âm nhạc, hình ảnh, vũ đạo, kỹ xảo...) đã tạo nên sức hút đặc biệt cho những MV này.
Việc giới trẻ sử dụng chất liệu dân gian trong âm nhạc không chỉ là sự sáng tạo mới mẻ mà còn là minh chứng rõ rệt cho tình yêu và sự trân trọng của họ đối với di sản âm nhạc truyền thống.
Những giai điệu dân ca, nhạc cụ truyền thống được khéo léo hòa quyện vào các thể loại âm nhạc hiện đại, tạo nên những sản phẩm âm nhạc độc đáo, vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa thể hiện sự trẻ trung, năng động trong cách tiếp cận. Điều này cho thấy thế hệ trẻ không chỉ biết nhìn về quá khứ mà còn biết cách phát huy và làm mới những giá trị âm nhạc lâu đời, từ đó khẳng định tình yêu sâu sắc đối với âm nhạc dân gian.

Hoàng Thùy Linh đưa loạt nhân vật văn học vào MV 'Để Mị nói cho mà nghe'. Ảnh cắt từ MV.
Để thu hút thêm nhiều bạn trẻ quan tâm và tham gia vào các loại hình nghệ thuật truyền thống, cần có những giải pháp đồng bộ và sáng tạo. Các giải pháp này phải tập trung vào việc đổi mới nội dung và hình thức biểu diễn, tăng cường quảng bá và tiếp thị, phát triển nguồn nhân lực trẻ, đồng thời xây dựng chính sách hỗ trợ phù hợp. Những nỗ lực này sẽ giúp nghệ thuật truyền thống tiếp cận gần hơn với thế hệ trẻ, tạo điều kiện để họ cảm nhận và yêu mến các giá trị văn hóa dân tộc.
Chia sẻ trên báo Hà nội mới, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy - Phó Trưởng khoa Nghệ thuật và Thiết kế - Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết: “Hiện nay, sự quan tâm của người trẻ đối với nghệ thuật đang có xu hướng gia tăng rõ rệt.
Tại các triển lãm, bảo tàng, có thể dễ dàng nhận thấy sự hiện diện của nhiều bạn trẻ, cho thấy nhu cầu tiếp cận và tìm hiểu nghệ thuật ngày càng lớn. Bên cạnh đó, các bậc phụ huynh cũng ngày càng chú trọng đầu tư cho con em học về nghệ thuật.
Trong hệ thống giáo dục, sách giáo khoa về mỹ thuật và âm nhạc đã được biên soạn kỹ lưỡng hơn, phản ánh sự chú trọng ngày càng lớn đối với giáo dục nghệ thuật. Đặc biệt, nhận thức về giáo dục nghệ thuật đã có sự thay đổi ngay từ bậc mầm non. Nhiều trường tư thục đã cải tiến giáo trình và phương pháp giảng dạy, hướng đến việc giúp trẻ cảm thụ nghệ thuật từ sớm. Đây là một bước tiến quan trọng, bởi việc tiếp xúc với nghệ thuật ngay từ nhỏ không chỉ giúp trẻ rèn luyện khả năng cảm thụ cái đẹp, mà còn góp phần nuôi dưỡng đam mê và làm phong phú đời sống tinh thần”.
Một trong những giải pháp quan trọng nhất là đổi mới nội dung và hình thức biểu diễn của các loại hình nghệ thuật truyền thống. Thay vì chỉ trình diễn những tích truyện cổ điển, các nghệ sĩ cần kể những câu chuyện gần gũi với cuộc sống hiện đại của giới trẻ, bằng ngôn ngữ nghệ thuật truyền thống.
Điều này đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt trong việc lựa chọn đề tài, xây dựng kịch bản và sử dụng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, cần kết hợp các yếu tố đương đại vào các buổi biểu diễn, như âm nhạc hiện đại, ánh sáng, sân khấu, trang phục... để tạo nên những sản phẩm nghệ thuật hấp dẫn, mới lạ và phù hợp với gu thẩm mỹ của giới trẻ. Ví dụ, có thể kết hợp chèo với rap, hiphop, hoặc sử dụng công nghệ trình chiếu 3D để tạo ra những hiệu ứng đặc biệt trong các buổi biểu diễn.
Để thu hút khán giả, cần tăng cường quảng bá và tiếp thị các loại hình nghệ thuật truyền thống trên các kênh truyền thông hiện đại, đặc biệt là mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến. Các nghệ sĩ và nhà quản lý văn hóa cần tận dụng sức mạnh của Internet và các công cụ truyền thông số để giới thiệu về nghệ thuật truyền thống, chia sẻ những câu chuyện hấp dẫn và tạo ra những cộng đồng trực tuyến cho những người yêu thích nghệ thuật truyền thống.
Đồng thời, để bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống, cần có những chính sách hỗ trợ phù hợp từ phía Nhà nước và các tổ chức xã hội. Các chính sách này cần tập trung vào việc đầu tư vào các dự án bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống, hỗ trợ các nghệ sĩ và nhóm nghệ thuật hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống, và tạo điều kiện cho các sản phẩm nghệ thuật truyền thống được quảng bá và giới thiệu rộng rãi trong và ngoài nước.