Doanh nghiệp kỳ vọng động lực mới để công nghiệp hỗ trợ cất cánh
Việt Nam hiện có hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang hoạt động song chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước. Theo các chuyên gia, cần thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) có chọn lọc, kết nối với doanh nghiệp nội địa nhằm nâng cao năng lực sản xuất.
Dư địa rất lớn
Theo thống kê của Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, dệt may, da giày. Tuy nhiên, gần 88% trong số này là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu, thiếu tiêu chuẩn chất lượng. Chỉ khoảng 10% doanh nghiệp ứng dụng tự động hóa và dưới 20% đạt chứng nhận ISO hoặc áp dụng các mô hình quản trị hiện đại như 5S, Lean, TQM.
Theo lãnh đạo Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TPHCM, phần lớn doanh nghiệp nội địa mới chỉ tham gia ở các công đoạn gia công cấp thấp, khó tiếp cận đơn hàng quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ các tập đoàn đầu chuỗi.
Tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành công nghiệp chủ lực vẫn ở mức thấp. Cụ thể, dệt may – da giày đạt khoảng 45 - 50%, cơ khí chế tạo 15 - 20%, lắp ráp ô tô từ 5 - 20%, chưa đạt mục tiêu 40% nội địa hóa. Ngành điện tử dù có sự hiện diện của nhiều tập đoàn lớn nhưng tỷ lệ linh kiện được sản xuất tại Việt Nam còn hạn chế. Điều này cho thấy khoảng trống lớn trong hệ sinh thái công nghiệp, đặc biệt là nhu cầu bức thiết về đầu tư có chiều sâu vào lĩnh vực này nhằm gia tăng giá trị sản xuất trong nước.
Ông Haruhiko Ozasa - Trưởng đại diện Tổ chức Thúc đẩy Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) cho biết, hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (kể cả doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Nhật Bản tại Việt Nam và doanh nghiệp nội địa Việt Nam) chiếm 36,6%, tương đương với Malaysia và Philippines. Theo ông Haruhiko Ozasa, năm 2024, đồng Yên suy yếu góp phần làm tăng tỷ lệ cung ứng từ Nhật Bản (tăng 2,7 điểm so với năm trước), dẫn tới giảm tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam.

Công nhân sản xuất trong nhà máy Kumho. ảnh: Hương Chi)
Ông Haruhiko Ozasa cho rằng, nếu tách riêng doanh nghiệp Việt Nam, tỷ lệ cung ứng cho các doanh nghiệp Nhật Bản chiếm 15,7% trong số tổng nguồn cung (giảm 1,5 điểm so với năm trước), con số này rất thấp. So với Indonesia, Thái Lan, Malaysia… tỷ lệ này của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Theo Trưởng đại diện tổ chức JETRO, có tới 56,1% doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam có dự định mở rộng đầu tư, con số vượt xa mức trung bình của ASEAN là 37,7%. Có tới 50,9% trong số các công ty này ý định tăng cường mua sắm tại Việt Nam, đây là tỷ lệ cao nhất trong số các nước ASEAN. Xét theo từng ngành nghề, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực như thiết bị điện, điện tử; dệt may; máy móc đều có nhu cầu mở rộng cung ứng nội địa ở mức cao.
Ông Hashimoto - Chủ tịch Tập đoàn Sharp (Nhật Bản) cho biết, tập đoàn đang tìm hiểu cơ hội đầu tư tại các tỉnh phía Nam của Việt Nam, để dịch chuyển chuỗi cung ứng. Ông đánh giá TPHCM, khu vực Bình Dương trước đây là địa phương có môi trường đầu tư hấp dẫn, phù hợp với tiêu chí của Sharp. Hiện tập đoàn đã có 2 nhà máy sản xuất đặt tại Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP).
Theo ông Võ Sơn Điền – Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TPHCM, thành phố có thế mạnh về công nghệ thông tin với nguồn nhân lực dồi dào. Việc kết hợp công nghệ thông tin vào trong sản xuất chế tạo sẽ tạo ưu thế mới, sức mạnh mới, năng lực cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

Công nhân sản xuất trong nhà máy ở TPHCM. ảnh: Hương Chi.
Cần chính sách then chốt
Theo lãnh đạo Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TPHCM, ngành công nghiệp có 5 lĩnh vực, gồm công nghiệp khai khoáng; công nghiệp chế biến; công nghiệp chế tạo; công nghiệp lắp ráp và công nghiệp bảo trì. Trong đó, công nghiệp chế tạo (còn gọi là công nghiệp hỗ trợ) có 4 nhóm linh kiện điện tử, cơ khí, công nghiệp nhựa, cao su và phụ liệu là ngành công nghiệp khủng khiếp lớn.
Theo một số chuyên gia, tiềm năng rất lớn, song chúng ta chưa được khai thác đúng hướng. Công nghiệp của Việt Nam đang đi ngược với các nước phát triển. Họ chế tạo rồi lắp ráp, còn chúng ta đang chỉ lắp ráp chứ không có chế tạo, điều này dẫn tới bị động.
Chia sẻ với phóng viên, lãnh đạo một doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho rằng, ngoài các chính sách hiện hành, cần một cơ chế đặc thù. Trong đó, phải có các khu đất dành cho công nghiệp hỗ trợ, ban đầu có thể không thu tiền, chỉ thu tiền khi doanh nghiệp có lãi; đặc biệt, cần có cơ quan chuyên trách về công nghiệp hỗ trợ là đầu mối quản lý về lĩnh vực này và phải có “luật riêng” về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Có như vậy, lĩnh vực này mới phát triển đúng kỳ vọng.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Tử Quảng - Tổng giám đốc BKAV, đề xuất cần dựa trên đặc thù của từng địa phương để phân loại vùng nào phù hợp với phát triển ngành công nghiệp nào và cần thu hút doanh nghiệp nào. Ngoài ra, phải có chương trình quốc gia về vật liệu, bắt đầu từ những vật liệu mà nước ta đang nhập khẩu lớn. Qua đó, giúp Việt Nam tăng tính tự chủ, giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng nhập khẩu từ nước ngoài.
“Làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu cùng các chính sách ưu đãi của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ đang mở ra cơ hội lớn. Nếu tận dụng được công nghệ mới và phát huy nguồn nhân lực trẻ dồi dào, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm sản xuất, cung ứng nguyên phụ liệu, linh kiện của khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, ông Đỗ Đức Tiến, Giám đốc kinh doanh Công ty Nayan Sustainability.











