Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn - Bài 1: Nghiên cứu khoa học- hướng đi sống còn
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã trở thành hai trụ cột quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của các trường đại học. Đây không chỉ là nhiệm vụ, mà còn là cơ hội để các trường khẳng định vị thế, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước và khu vực.
Tuy nhiên làm thế nào để những nghiên cứu khoa học mang tính ứng dụng cao, phục vụ xã hội, từ hôm nay Báo Đại đoàn kết khởi đăng loạt bài: Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn

Sinh viên nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Quang Vinh
Nghiên cứu khoa học đóng vai trò then chốt trong sự phát triển và nâng cao chất lượng của các trường đại học (ĐH). Việc đầu tư vào nghiên cứu khoa học, xây dựng môi trường khuyến khích sáng tạo và đổi mới là yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển của các trường ĐH trong thời đại mới.
Nghiên cứu khoa học tạo ra tri thức mới
Ông Phạm Quang Hưng - Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin (Bộ GDĐT) nhận định, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục ĐH những năm qua có bước phát triển rõ nét. Số bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng nhanh 12-15%/ năm. Hệ thống giáo dục ĐH đóng góp khoảng 70% số bài trên WoS và 90% trên Scopus của cả nước. Các cơ sở giáo dục ĐH đang dần trở thành những chủ thể nghiên cứu mạnh.
Tại các cơ sở giáo dục ĐH, hoạt động nghiên cứu đóng vai trò then chốt, không chỉ góp phần tạo ra tri thức mới mà còn nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Phân tích từ các chuyên gia cho thấy, một trường ĐH hiện đại, chất lượng cao phải là nơi giao thoa của 3 chức năng: Đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội. Trong đó, nghiên cứu khoa học có tác động quyết định tới chất lượng của hai chức năng kia và tới chất lượng chung của nhà trường. Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội, chức năng quan trọng nhất của trường ĐH là truyền thụ kiến thức (giảng dạy) và sáng tạo tri thức (nghiên cứu).
Vừa rồi, tại Hội nghị giáo dục ĐH năm 2025, ông Vũ Minh Đức - Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GDĐT) khẳng định, giáo dục ĐH có tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa; đồng thời giữ vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, nâng cao vị thế quốc gia, xây dựng xã hội tri thức và phát triển bền vững.

Sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam say mê nghiên cứu khoa học. Ảnh: Quang Vinh
Theo ông Vũ Minh Đức, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn đào tạo với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng nhấn mạnh yêu cầu có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia trong và ngoài nước. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có năng lực chuyên môn cao trong các lĩnh vực then chốt như khoa học cơ bản, công nghệ bán dẫn, thiết kế vi mạch, kỹ thuật số... Đồng thời, chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế với các ĐH uy tín, hiện đại hóa chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tích hợp công nghệ tiên tiến, trong đó có trí tuệ nhân tạo.
Mới đây, Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định, giáo dục ĐH là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết đồng thời nhấn mạnh yêu cầu có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo; xây dựng cơ chế huy động nhân lực chất lượng cao ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện tại các cơ sở giáo dục; khuyến khích các chuyên gia, nhà khoa học chủ trì hoạt động nghiên cứu; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.
Vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu
Nghị quyết số 57- NQ/TW của Bộ Chính trị mở ra cơ hội và đồng thời là yêu cầu cấp thiết cho các tổ chức nghiên cứu khoa học bứt phá, thay đổi cách làm, khắc phục những bất cập lâu nay.
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức (hiện là Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Xây dựng – Giao thông, ĐH Quốc gia Hà Nội): Nghị quyết số 57/NQ-TW mang đến cho các tổ chức nghiên cứu khoa học bốn cơ hội lớn. Thứ nhất, tạo cơ hội thúc đẩy tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu theo hướng gắn kết với thực tiễn và nhu cầu phát triển đất nước; trở thành động lực giúp các viện nghiên cứu chuyển mạnh mẽ sang nghiên cứu ứng dụng, gắn với doanh nghiệp, địa phương, ngành, nghề cụ thể. Thứ hai, tạo ra cơ hội hợp tác công- tư và liên kết quốc tế trong chuyển giao công nghệ theo mô hình “liên kết ba nhà”: Nhà nước-Nhà khoa học-Doanh nghiệp. Mô hình này là hướng đi chiến lược nhằm kết nối năng lực nghiên cứu với nhu cầu thị trường và nguồn lực đầu tư. Thứ ba, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động nghiên cứu, quản lý và kết nối tri thức. Nhiều viện nghiên cứu đã tiên phong trong chuyển đổi số bằng cách xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, hệ thống phân tích dữ liệu lớn, mô hình mô phỏng nghiên cứu bằng AI, tự động hóa phòng thí nghiệm và triển khai nghiên cứu mở. Thứ tư, tạo cú hích nâng cao chất lượng đội ngũ nghiên cứu, xây dựng môi trường học thuật sáng tạo.

Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội bên những công trình nghiên cứu. Ảnh: NTCC
Sau khi Nghị quyết ban hành, các cơ sở đào tạo đã tích cực triển khai đưa nghị quyết vào cuộc sống. Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội đã có những điều chỉnh quan trọng để phù hợp với xu thế phát triển và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tập trung vào các hướng nghiên cứu có tính ứng dụng cao. Đơn cử, các lĩnh vực công nghệ lõi như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, vật liệu tiên tiến, công nghệ robot, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao, thành phố và giao thông thông minh, an toàn thông tin, các lĩnh vực điện tử, năng lượng, thiết kế chip-vi mạch và bán dẫn. Đây là những lĩnh vực công nghệ cao có tiềm năng đóng góp vào nền kinh tế số và công nghiệp 4.0 của Việt Nam.
PGS.TS Huỳnh Đăng Chính, Phó Giám đốc ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết, ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57, ĐH Bách khoa Hà Nội đã ban hành nghị quyết 86 để chi tiết hóa mục tiêu, nhiệm vụ của ĐH Bách khoa Hà Nội. Trong đó có những con số cụ thể về số lượng cũng như chất lượng đào tạo sau ĐH, kỹ sư chuyên sâu để làm sao có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng những mục tiêu, tiêu chí của Nghị quyết 57. Theo ông Chính, khi tạo được vòng tròn khép kín hệ sinh thái, ĐH Bách khoa Hà Nội kỳ vọng có thể ứng dụng công nghệ dựa trên nền tảng khoa học, ươm tạo được công nghệ cũng như tạo ra sản phẩm để đưa ra thị trường một cách nhanh nhất.
Đề cao ứng dụng thực tiễn
Mới đây, trao đổi về ứng dụng AI trong giáo dục ĐH, ông Nguyễn Thanh Hùng, ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các cơ sở giáo dục ĐH trên toàn thế giới đã chủ động nghiên cứu, từng bước đưa ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động đào tạo, nghiên cứu và quản lý, điều hành. Thách thức lớn nhất hiện nay, theo ông Nguyễn Thanh Hùng, không nằm ở việc sinh viên có sử dụng AI hay không, mà là làm thế nào để tích hợp AI một cách hiệu quả, vừa phát huy lợi ích trong học tập và giảng dạy, vừa đảm bảo chất lượng học thuật, tư duy phản biện, tính liêm chính. Cụ thể, tại ĐH Bách khoa, nền tảng chuyển đổi số eHUST với mô hình kiến trúc mở, cho phép tích hợp hiệu quả các sản phẩm trong hệ sinh thái để tạo thành một chuỗi dịch vụ thống nhất cho người học, cán bộ, các nhà quản lý.

Gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn là vấn đề được quan tâm. Ảnh: Quang Vinh
Dẫu thế, việc tìm lời giải cho cho bài toán gắn kết nghiên cứu khoa học với ứng dụng thực tiễn đang là mối quan tâm. Vấn đề này từng nhiều lần được đưa ra thảo luận tại Nghị trường, các ĐBQH đã nêu thực trạng nhiều kết quả nghiên cứu chưa hoàn thiện về công nghệ; liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường, giữa nhà khoa học và doanh nghiệp còn yếu. Nhiều kết quả nghiên cứu có địa chỉ ứng dụng nhưng chưa chuyển giao được, chưa hoàn thiện về công nghệ và khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì lẽ đó, gắn kết giữa nghiên cứu và ứng dụng đang là bài toán cần sớm có lời giải, để mang lại hiệu quả thực chất cho nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH hiện nay.
(còn nữa)
Theo phân tích từ các chuyên gia, nguyên nhân khiến đóng góp của khoa học công nghệ đối với phát triển kinh tế xã hội còn hạn chế là: Các đề tài nghiên cứu được xây dựng với thời gian thực hiện ngắn (một vài năm), không đủ giải quyết các bài toán khoa học-công nghệ mang tính nền tảng hoặc chiến lược; thiếu cơ chế tài trợ trung và dài hạn, khiến các nhóm nghiên cứu khó theo đuổi các hướng đi bền vững, có khả năng tạo ra đột phá công nghệ thật sự; cùng đó là việc thiếu các chương trình chuyển giao hiệu quả.