Đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp

Những năm qua, lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp đã có nhiều khởi sắc và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều mặt hàng. Tuy nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa theo kịp yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại.

Cấy lúa bằng máy sử dụng mạ sân tại HTX Quyết Tiến, xã Vĩnh Phú Đông, huyện Phước Long (Bạc Liêu). Ảnh: DUNG NGỌC

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời gian qua, mức độ cơ giới hóa một số khâu trong nông nghiệp đạt tỷ lệ cao và tăng nhanh. Cụ thể, đối với lĩnh vực trồng trọt, khâu làm đất lúa đạt 95%; khâu chăm sóc, bảo vệ thực vật lúa và các cây trồng khác đạt khoảng 70%; khâu thu hoạch lúa đạt 70%. Nhờ đó, đã nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, nổi bật là hệ thống trang bị động lực, số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp tăng nhanh. So với năm 2011, năm 2019, số lượng máy kéo cả nước tăng khoảng 48%, máy gặt đập liên hợp tăng 79%; máy sấy nông sản tăng 29%. Đến nay, ngành cơ khí trong nước đã sản xuất được động cơ, máy kéo công suất đến 30 mã lực (HP), chiếm hơn 30% thị phần trong nước; máy liên hợp gặt lúa chiếm 15% thị phần. Cả nước hiện có 7.803 doanh nghiệp cơ khí (có 95 doanh nghiệp có vốn hơn 500 tỷ đồng) và gần 100 cơ sở chế tạo máy, thiết bị nông nghiệp.

Cơ giới hóa nông nghiệp đã giải quyết khâu lao động nặng nhọc, tính thời vụ, đồng thời thúc đẩy quá trình liên kết sản xuất, hình thành các tổ chức dịch vụ ở nông thôn. Điển hình như hình thành nhiều mô hình liên kết doanh nghiệp, hợp tác xã với nông dân sản xuất trên cánh đồng lớn kết hợp các dịch vụ làm đất, cấy, phun thuốc bảo vệ thực vật, thu hoạch, sấy khô, cho thuê kho bảo quản... Ngoài ra, việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg đã góp phần nâng cao mức độ cơ giới hóa và khuyến khích thúc đẩy các cơ sở cơ khí chế tạo máy nông nghiệp trong nước đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng máy móc, thiết bị sản xuất có hiệu quả.

Tuy nhiên mức độ cơ giới hóa cũng chưa đồng đều ở các khâu, các lĩnh vực. Cụ thể, mới tập trung chủ yếu một số khâu như: làm đất, chăm sóc lúa, mía; thu hoạch lúa. Ở nhiều khâu, mức độ cơ giới hóa còn thấp như: chăm sóc cây ăn quả, thu hoạch mía, cà-phê. Riêng đối với lĩnh vực lâm nghiệp, hiện vẫn có tới 70% khối lượng công việc được làm thủ công, áp dụng cơ giới hóa chỉ mới được thực hiện hai khâu chặt hạ và vận chuyển, còn nhiều khâu sản xuất quan trọng chiếm tỷ lệ khối lượng công việc lớn như trồng, chăm sóc, chữa cháy, bốc xếp thì tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa thấp, chỉ khoảng 2 đến 5%.

Trao đổi về những hạn chế của lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp nước ta hiện nay, Thứ trưởng Công thương Đỗ Thắng Hải cho rằng: Trang bị động lực máy nông nghiệp Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, mới đạt trung bình 1,6 mã lực (HP)/ha canh tác, thấp hơn nhiều so với Thái-lan 4 HP/ha; Trung Quốc 8 HP/ha; Hàn Quốc 10 HP/ha. Trong khi đó, ngành cơ khí trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản về máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp về chủng loại, số lượng cũng như chất lượng máy. Hiện nay, Việt Nam phải nhập khẩu gần 70% số máy móc phục vụ nông nghiệp từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Ngoài ra, còn phải kể đến cơ chế hỗ trợ tín dụng đầu tư phát triển cho các cơ sở chế tạo máy, thiết bị nông nghiệp chưa thật sự hấp dẫn để thu hút sự tham gia của nhiều đơn vị.

Trước thực tế đó, để đạt mục tiêu đến năm 2030, mức độ cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt từ 80 đến 100%; công suất máy trang bị bình quân cả nước đạt từ 5 đến 6 HP/ha… là điều không dễ dàng. Chính vì vậy, thời gian tới, cần có nhiều giải pháp đồng bộ và triển khai hiệu quả từ các địa phương. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc cần sớm thực hiện trong thời gian tới là đầu tư nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phù hợp việc đưa máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất. Trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng các cánh đồng cơ giới hóa đồng bộ ở những vùng sản xuất hàng hóa tập trung các loại cây trồng chính như: lúa, rau màu... Đồng thời hình thành các tổ chức dịch vụ cơ giới hóa ở nông thôn, phân công lại lao động để nâng cao hiệu quả của áp dụng cơ giới hóa. Bên cạnh đó, tập trung đẩy mạnh công nghiệp chế tạo máy, thiết bị phục vụ nông nghiệp đồng thời với việc đào tạo nhân lực cho lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp.

Mục tiêu đến năm 2030, những vùng sản xuất nông nghiệp tập trung đều được cơ giới hóa đồng bộ và tiến tới tự động hóa. Trong lĩnh vực trồng trọt, tỷ lệ áp dụng máy ở khâu chăm sóc đạt 95% và khâu thu hoạch đạt 90% đối với các sản phẩm cây trồng chủ lực quốc gia. Lĩnh vực lâm nghiệp, tại các vùng trồng rừng tập trung, quy mô lớn có áp dụng máy móc các khâu làm đất đạt 75%, trồng cây đạt 50%, phòng trừ sâu bệnh và phòng, chống cháy rừng đạt 90%, thu hoạch đạt 50%. Trong lĩnh vực thủy sản, đối với nuôi trồng thủy sản thì ở các ao nuôi quy mô công nghiệp đạt 90% diện tích nuôi sử dụng máy móc. Riêng về đánh bắt hải sản, tăng số lượng tàu khai thác hải sản trên biển có công suất hơn 90 CV lên 50 nghìn chiếc.

TIẾN ANH

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/kinhte/nhan-dinh/item/43436202-day-manh-co-gioi-hoa-trong-san-xuat-nong-nghiep.html