Chuyển đổi số nâng tầm nông nghiệp Việt

Công ty cổ phần Quốc tế Minh Phú (Hưng Yên) là một ví dụ tiêu biểu cho xu hướng đổi mới này. Đại diện công ty, ông Trần Văn Vân cho biết, doanh nghiệp đang triển khai mô hình nuôi cua cà ra – một loại đặc sản giá trị cao đòi hỏi điều kiện môi trường khắt khe – bằng chiến lược kép: chuyển đổi số gắn liền với công nghệ nuôi bền vững. Tại các ao nuôi, hệ thống cảm biến IoT được lắp đặt để quan trắc môi trường, dữ liệu được AI phân tích, từ đó dự đoán sớm rủi ro và đưa ra khuyến nghị xử lý tối ưu. Máy bay không người lái cũng được sử dụng để cho ăn, giúp phân bổ thức ăn đồng đều, định lượng chính xác, tiết kiệm nhân công và giảm lãng phí.

Hình thành nền nông nghiệp công nghệ cao

Cùng với công nghệ, Minh Phú hợp tác với các viện nghiên cứu triển khai mô hình nuôi sinh thái: trồng rong thủy sinh trong ao để hấp thụ chất thải, tạo cân bằng tự nhiên và hạn chế tối đa việc dùng hóa chất, kháng sinh. Doanh nghiệp đặt mục tiêu nhân rộng mô hình sang nuôi tôm và cá. Ông Vân nhấn mạnh, đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ là khoản chi phí lớn nhất nhưng cũng là nền tảng quyết định. Về lâu dài, mô hình sinh thái kết hợp tự động hóa giúp tiết kiệm vượt trội chi phí vận hành, song chỉ phù hợp với những đơn vị có tiềm lực tài chính mạnh.

Trên phạm vi rộng, nông nghiệp Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến quan trọng, mở ra kênh phân phối mới, nâng cao thu nhập cho nông dân và thúc đẩy thói quen tiêu dùng số.

Theo ông Nguyễn Kim Phúc – Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đến năm 2024, Bộ đã vận hành 113 cơ sở dữ liệu chuyên ngành và 32 phần mềm quản lý, giúp giám sát sản xuất theo thời gian thực và điều phối kịp thời trong các tình huống khẩn cấp. Công nghệ Blockchain và IoT cũng được áp dụng trong truy xuất nguồn gốc, đảm bảo nông sản xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Từ năm 2019, Hiệp hội Nông nghiệp số ra đời đã góp phần hình thành hệ sinh thái số minh bạch, liên thông.

Nhờ những nỗ lực này, diện mạo nông nghiệp thông minh tại Việt Nam bước đầu được định hình. Tính đến năm 2025, cả nước có khoảng 290 doanh nghiệp và gần 2.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao, với trên 70% vùng sản xuất đạt tiêu chí công nghệ cao. Chuyển đổi số thực sự trở thành đòn bẩy quan trọng để hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, bền vững.

Diện mạo nông nghiệp thông minh tại Việt Nam bước đầu được định hình

Diện mạo nông nghiệp thông minh tại Việt Nam bước đầu được định hình

Đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, khép kín chuỗi giá trị

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp vẫn đối mặt với 4 điểm nghẽn lớn. Thứ nhất là khoảng cách về số hóa sâu sắc giữa các doanh nghiệp lớn và hàng triệu hộ nông dân nhỏ lẻ do mức độ phổ cập công nghệ chưa đồng đều. Thứ hai, hạ tầng và chi phí đầu tư vẫn là rào cản, khi nhiều vùng nông thôn, miền núi còn yếu về viễn thông, trong khi giá thiết bị công nghệ cao vượt quá khả năng tài chính của nông dân. Thứ ba, hạn chế về nguồn nhân lực và nhận thức bởi lao động nông nghiệp lớn tuổi khó tiếp cận công nghệ, trong khi đội ngũ kỹ thuật viên số nông nghiệp chuyên sâu còn rất thiếu. Cuối cùng, cơ chế chính sách và nguồn lực hỗ trợ chưa đủ mạnh, quỹ hỗ trợ còn dàn trải và thiếu khung pháp lý đồng bộ về tiêu chuẩn dữ liệu, liên thông hệ thống, làm chậm việc nhân rộng mô hình số.

Để tháo gỡ những rào cản này, ông Nguyễn Minh Tiến – Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, chuyển đổi số không thể dừng ở việc số hóa các khâu xúc tiến mà cần coi dữ liệu là nguồn tài nguyên thiết yếu. Theo ông, mục tiêu chiến lược là đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, khép kín trên toàn chuỗi giá trị ngành, từ phát triển mã số và số hóa vùng nguyên liệu, sản xuất, chế biến đến hệ thống phân phối. Việc số hóa triệt để vùng nguyên liệu sẽ tạo nguồn dữ liệu khổng lồ về tài nguyên và khí hậu, giúp nông dân điều chỉnh phương pháp canh tác, thích ứng biến đổi khí hậu và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.

Khi giảm thiểu phát thải qua hệ thống giám sát số, nông nghiệp Việt Nam không chỉ bán nông sản mà còn bán được tín chỉ carbon, mở ra giá trị gia tăng mới và khẳng định vai trò của dữ liệu trong phát triển.

Ở góc độ chính sách, ông Phạm Duy Khánh – Giám đốc Trung tâm Phát triển nông thôn (Viện Chiến lược chính sách nông nghiệp và môi trường) đề xuất 3 trụ cột trọng tâm: xây dựng hạ tầng dữ liệu và giám sát; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao năng lực, tạo động lực cho nông dân. Ông khẳng định, để nông nghiệp Việt Nam thực sự “cất cánh” bằng chuyển đổi số, cần đổi mới tư duy toàn diện: xóa bỏ khoảng cách số, tăng cường đầu tư hạ tầng, bồi dưỡng nhân lực; đồng thời xây dựng hệ sinh thái dữ liệu vững chắc, coi dữ liệu là tài nguyên chiến lược, phát triển làng thông minh như mô hình đột phá cho tương lai.

Dữ liệu là nền tảng, nông nghiệp số là tương lai

Chuyển đổi số đang mở ra một thời kỳ phát triển mới cho nông nghiệp Việt Nam, đưa ngành từ sản xuất truyền thống sang mô hình hiện đại, sinh thái, gắn kết chặt chẽ với thị trường quốc tế và tiêu chuẩn bền vững. Việc coi dữ liệu như nguồn tài nguyên quan trọng, đầu tư hạ tầng công nghệ, phát triển nhân lực chất lượng cao và hình thành làng thông minh chính là chìa khóa để giải quyết các điểm nghẽn, bảo đảm cho nông nghiệp Việt Nam vừa tăng trưởng về quy mô vừa nâng cao giá trị. Đây là con đường tất yếu để nông sản Việt không chỉ vững vàng trên thị trường trong nước mà còn khẳng định vị thế trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/chuyen-doi-so-nang-tam-nong-nghiep-viet-170975.html