'Chữ' - một trong tứ bảo của người Việt xưa
'Nhất chữ, Nhì tranh, Tam sành, Tứ sứ' được xem như là tứ bảo trong thú chơi văn hóa, sưu tầm cổ ngoạn và trang trí nội thất của những gia đình người Việt xưa.
Vì sao gọi là tứ bảo? Tứ bảo là bốn vật báu (quý hiếm) phải tốn rất nhiều tiền bạc và công sức mới có được! Tìm hiểu về bốn vật báu này gắn liền với đời sống văn hóa Việt Nam cũng là điều rất thú vị. Trong bài viết, chúng tôi xin tập trung vào báu vật thứ nhất, ba báu vật còn lại xin hẹn vào một bài viết khác.

Tính đa nghĩa của tiếng Việt là kết quả tổng hợp của các nguồn nghĩa từ chữ Hán, Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ
“Nhất chữ” - Linh hồn văn hóa Việt
“Nhất chữ” cũng giống như “Nhất sỹ” trong quan niệm “Nhất sỹ, nhì nông” của người Việt. Đó chính là tinh thần tôn vinh đạo học, người học. Ở các quốc gia phương Đông, đặc biệt Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam nơi đâu cũng có những công trình kiến trúc văn hóa tâm linh như chùa chiền, lăng miếu, nhà thờ, đền đài, điện tẩm… Bên ngoài và bên trong những công trình kiến trúc này ta thường bắt gặp những bảng, biểu, hoành phi câu đối được viết bởi một lối chữ sắc sảo, đẹp đẽ và trang trọng. Nếu khám phá được những ẩn nghĩa và nội dung bên trong của từng câu chữ, ta lại càng thấy thú vị khi hiểu sâu sắc hơn về nền văn hóa, tư tưởng và học thuật của một dân tộc. Nói như thế để chúng ta thêm hiểu rằng người Việt là một dân tộc rất sính sự học và chữ nghĩa. Tiếng Việt là một hệ thống ngôn ngữ đơn âm tiết, lại có thêm sáu thanh điệu, nên phát âm của tiếng Việt rất đa dạng và phong phú. Tiếng Việt không chỉ được sử dụng như một phương tiện để giao tiếp cộng đồng mà còn là một thú chơi rất trang nhã, rất văn hóa - văn hóa chơi chữ. Điều này đã tạo nên một sự khác biệt giữa ngôn ngữ Việt với ngôn ngữ của các quốc gia khác dù trong cùng một ngữ hệ (Hán, Latin).
“Chữ”, được hiểu như là chữ nghĩa, văn chương, viết bằng các thể loại thư pháp trên da thú, vải lụa, giấy, gỗ, đá, kim khí và gốm sứ… chữ viết có thể lưu giữ từ đời này qua đời khác khi được viết (khắc) trên gỗ, đá, kim loại. Phổ biến nhất là hoành phi, câu đối. Hoành phi, câu đối vừa là vật trang trí nội thất cho những công trình kiến trúc kể trên, nó đồng thời cũng là cái mốt sinh hoạt văn hóa rất phổ biến của những gia đình người Việt xưa.
“Người như cây gỗ xoan đào
Em như câu đối dán vào được chăng?”
Một bức chữ được viết, khắc ra trên gỗ quý không phải là cái để cất kỹ, dấu kín mà nó phải được trưng bày ra, khoe ra. Ngang thì gọi là hoành phi, bảng, biểu; dọc thì gọi là liễn đối. Những thứ ấy không chỉ là vật để trang trí mà nó còn thể hiện ý chí, tinh thần, trí tuệ và tình cảm của người chơi, người trưng bày. Một lối viết, một nghĩa chữ, một nội hàm của một văn bản cũng là cái để được thưởng thức và trao đổi, đàm luận bên chén trà, chung rượu. Chơi chữ trở thành một nghệ thuật văn hóa, nghệ thuật tạo hình. Một bức chữ được thể hiện trên giấy, gỗ, đá… trở thành tác phẩm nghệ thuật, một thú chơi, một thú sưu tầm của người Việt. Dân tộc Việt sở hữu ba hệ thống ký tự: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ. Chữ Hán và chữ Nôm thuộc hệ chữ tượng hình; chữ Quốc Ngữ thuộc hệ chữ ký âm. Lịch sử về sự hình thành và phát triển của ba hệ thống ký tự này là một câu chuyện dài, xin được hẹn trong những bài viết khác. Chữ tượng hình là một phương thức giao tiếp của người cổ xưa, nhằm vẽ lại, ký hiệu lại thế giới sự vật hiện tượng trong đời sống. Đó chính là những khái niệm ban đầu, khái niệm trần trụi, nghĩa đen, nghĩa cụ thể của sự vật. Chữ Hán và chữ Nôm được hình thành bởi 6 phương thức gọi là lục thư (1). Riêng chữ Nôm là một sáng tạo tuyệt vời của người Việt; thêm vào một chữ hán vài ký hiệu hay một bộ thủ nào đó theo phép hội ý, giả tá, biểu niệm, hài thanh để tạo ra một chữ Nôm với đầy đủ tư cách là một chữ, một hình vị, một tiếng nói, một ý nghĩa ngữ pháp hoàn toàn Việt Nam không có trong ngôn ngữ Hán.
Chơi chữ - Tạo Hình” - Một bức tranh tao nhã
Nghệ thuật viết chữ đẹp - Thư pháp đã có lịch sử rất lâu đời. Từ khi người Trung Hoa biết dùng lông thú (lông chồn, lông thỏ, lông tai trâu) (2)… để làm ngòi bút thì lối chữ triện, lệ cứng vuông, gấp gãy viết bằng que tre cũng dần được thay thế bằng các thể chữ mền mại như khải, hành và bay bướm, phiêu sái như thảo thư. Sự phồn thịnh của Đường thi - một mô típ thi pháp thay thế cho Sở từ, Cổ phong trong thi ca cổ Trung Hoa đã khế hợp với bút lông và nghệ thuật thư pháp tạo ra những tác giả, tác phẩm lừng danh và bất hủ như Lý Bạch, Vương Duy, Trương Húc, Trương Hoài Tố đời Đường, anh em nhà thư pháp vĩ đại với “Thiếp Lan Đình” Vương Hi Chi, Vương Hiến Chi đời Tấn, Hoàng Đình Kiên, Tô Đông Pha đời Tống… Sau này còn có nhiều thư pháp gia trứ danh đời Minh và Trịnh Bản Kiều đời Thanh. Cùng với thi ca nghệ thuật thư pháp đã tạo nên một diện mạo mới cho nghệ thuật văn hóa thưởng lãm thư họa.
Một bài thơ hóa thân thành một bức thư pháp, một bức tranh thủy mặc được điểm xuyết với nét bút tài hoa đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời. Ở Việt Nam, thư pháp được biết đến như là một sự tồn tại còn lưu giữ trong các hoành phi, liên đối ở các chùa chiền cổ thời Lý, Trần, Lê sơ với các thể chữ đẹp không thua kém Trung Hoa chút nào. Với Việt Nam, một đất nước có bốn ngàn năm văn hiến, đã từng trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn phá, làm hư hoại nhiều công trình kiến trúc, các tác phẩm để đời ấy đã bị mai một rất nhiều. Người đời nay chỉ còn biết đến một “Tả Thanh Thiên” chữ của Nguyễn Văn Siêu tại Hồ Gươm, một Cao Bá Quát, hình bóng của ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và thú chơi chữ của người Việt trong thời suy tàn của Nho học thấp thoáng qua bóng dáng “Ông đồ” trong tiếng thơ ngậm ngùi của Vũ Đình Liên.
“Chơi chữ - Tạo âm” đầy nhạc tính, thông minh và sáng tạo
Chữ Quốc Ngữ với hệ thống Alphabet kết hợp 6 thanh điệu và các âm đệm làm cho tiếng Việt biến hóa kỳ ảo trong các cách phát âm với luyến láy, lái âm, lái vần, chiết tự… tạo nên nhiều chất liệu phong phú cho phương thức chơi chữ tạo nên âm điệu giàu thanh sắc của tiếng Việt.
Khác với nhiều hệ thống ngôn ngữ trên thế giới. Với 29 âm trong đó có 11 nguyên âm, 1 bán nguyên âm, 17 phụ âm và 6 thanh điệu (sắc, huyền, ngã, nặng, ngang) đã làm cho tiếng Việt bổng, trầm linh hoạt, và một khi được tổ chức phát âm với giai điệu và tiết tấu riêng thì tiếng Việt vô cùng sinh động, đầy nhạc tính, Alexandre de Rhodes, được xem như một trong những người có công đóng góp lớn vào việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ ở thế kỷ XVII đã nói về điều đó như sau: “Riêng tôi xin thú nhận rằng, khi vừa tới Đàng Trong nghe người Việt nói truyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt (3). Cũng theo Alexandre de Rhodes thì tiếng Việt khó nhất là khi phát âm, “cùng một tiếng như “dai” chẳng hạn, nếu đọc bằng nhiều cách, thì nó chỉ tới 23 sự vật hoàn toàn khác nhau “(tlđd3).
Câu đối (hay liễn đối) là một dạng văn học, thể biền ngẫu (4), câu văn được tổ chức theo một qui tắc chặt chẽ, về số lượng từ (chữ), về nhịp, về tính cân đối trong ngữ nghĩa. Cho nên, khi chơi câu đối, người ta rất coi trọng niêm luật, thanh điệu; các thanh bằng, trắc phải đối nhau sao cho hợp qui luật. Một câu đối đẹp không chỉ ở tứ hay, nghĩa rộng mà âm thanh của nó khi đọc lên phải thuận tai, du dương, trôi chảy, nghĩa là; về âm nó phải có nhạc tính: “Tính ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa, dù đã bảy mươi còn khỏe mạnh; Nhà ông có, có bầu có bạn, có ván cơm sôi, có nồi cơm nếp, mở ra một tiệc thấy linh đình “(NK).
Sức mạnh và thần thái của văn hóa chơi chữ không chỉ là sự biểu đạt bằng âm thanh hay, bằng nét bút chấm phá đẹp mà chính là ý nghĩa súc tích mà nó đang chuyên chở. “Nhất chữ, nhì tranh, tam sành, tứ sứ” còn là phương châm thưởng thức văn hóa của người Việt. Sở hữu một bức tranh chữ, người chơi như vận vào mình một tâm niệm tốt đẹp, một hoài bão trong sáng, nhiều khi ý nghĩa của câu chữ cứ quấn quýt theo ta và sống với ta suốt đời…
Tính đa nghĩa của tiếng Việt là kết quả tổng hợp của các nguồn nghĩa từ chữ Hán, Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Người Việt hiểu và giải thích nghĩa chữ Hán đôi khi không giống như người Trung Hoa. Có thể lấy một ví dụ nhỏ để minh họa; người Trung Hoa giải nghĩa chữ PHÚC 福 theo Giáp cốt văn 甲骨文 là hình hai tay nâng một bình rượu lớn, đứng trước bàn thờ (bộ kì 示 tức là bộ thị 示) sau đó bỏ bớt hình cái tay và dần dần biến thành dạng chữ hiện nay 福. Người Việt thì nhìn bộ kì ấy thành bộ y 衣 (áo quần) viết gọn, bình rượu tách thành chữ nhất 一 (là một); chữ khẩu 口 (là miệng); chữ điền 田 (là đám ruộng); vậy một người có đầy đủ cái ăn, cái mặc chính là phúc. Phúc của người Trung Hoa là cầu từ nơi ngoài đến, còn phúc của người Việt thì phải tự tay mình làm ra; cơm áo kia từ lao động mà có, không ai tự dưng ban cho. Giải nghĩa theo cách ấy thật đơn sơ nhưng rất ý vị và minh triết. Người Trung Hoa treo chữ “phúc” lộn ngược bảo là phúc đáo, người Việt hiểu chữ phúc là đồng âm với chữ bức (con dơi), trong bức tranh PHÚC, LỘC, THỌ (Tam Đa), ngoài ba ông ra còn có các vật tượng trưng cho Tam đa là con dơi và em bé đại diện cho Phúc; con nai và thoi vàng đại diện cho Lộc; quả đào và chim hạc đại diện cho Thọ. Vì thế, nếu người Việt treo chữ phúc lộn ngược chính là đặt con dơi (phúc) theo đúng hướng thuận chiều. (Con dơi đầu chúc lên là con dơi có vấn đề!).

Nghĩa trong tiếng Việt là một hợp từ động, vô cùng biến hóa, nhờ vào các đặc điểm như đơn âm tiết (nên dễ ghép và dễ tách từ), sáu thanh điệu và cấu trúc ngữ pháp biến hóa đã làm cho tiếng Việt khi viết và nói đều vô cùng linh hoạt. Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Việt, có rất nhiều giai thoại về cách chơi chữ điệu nghệ từ các bậc túc nho cho đến người bình dân như Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khuyến, Trạng Quỳnh, Thủ Thiệm… Chuyện kể, có người đến xin câu đối về dán chuồng lợn ngày tết cầu cho lợn ăn nhiều, mau lớn, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ (Nguyễn Khuyến) viết cho câu: “Trường trường, trưởng trưởng, trường trường trưởng/ Trưởng trưởng, trường trường, trưởng trưởng trường” (Dài dài, lớn lớn, dài dài, lớn/ Lớn lớn, dài dài, lớn lớn, dài), “trường” và “trưởng” ấy trong chữ Hán là chỉ một chữ 長, nhưng đọc “trường” có nghĩa là dài, đọc “trưởng” có nghĩa là lớn (chỉ có tiếng Việt mới đọc phân biệt 2 âm của chữ này). Câu đối đúng như mong đợi của người xin chữ. Một lái buôn lợn giống phất lên, dựng được cái nhà to, xin cụ tấm hoành phi, cụ cho “Phúc đại lai- 福大來” có nghĩa là phúc lớn đã đến hay nói nôm na là “Phúc lớn lại”, nếu nói lái theo kiểu Quảng Nam là “Phúc lái lợn” nhà kia thấy có ý nghĩa và hay, vẫn quý, vẫn treo. Có giai thoại về một thầy đồ học giỏi nhưng thi hỏng, về làng mở trường dạy học. Thầy rất tự hào về vốn học của mình, nhất là trong nhà có hàng vạn quyển sách quý, ngoài sân trước nhà có hàng ngàn cây tre xanh. Thầy viết trước nhà câu đối để biểu hiện chút khí phách của người quân tử: Tiền đình thiên trúc/ Nội gia vạn thư (trước nhà ngàn cây tre/ Trong nhà vạn quyển sách). Điều ấy làm cho quan huyện sở tại ngứa mắt, lão cho lính chặt hết rừng tre, để xem câu đối ấy có còn ý nghĩa gì không. Hôm sau lão ngang qua nhà thầy đồ, liếc mắt, câu đối vẫn còn nhưng thêm mỗi vế một chữ nữa: Tiền đình thiên trúc đoạn/ Nội gia vạn thư trường (Trước nhà ngàn cây tre cụt/ Trong nhà vạn quyển sách dài. Lão nghĩ còn tre cụt thì vẫn còn trúc đoạn, còn trúc đoạn thì câu đối kia vẫn còn ý nghĩa để tồn tại. Hôm sau lão cho lính đến đào bứng gốc cả rừng tre, thử xem câu đối ấy có còn được chăng. Ngày đến, lão lại qua, câu đối vẫn tồn tại một cách ngạo nghễ, nhưng mỗi vế lại thêm một chữ mới: Tiền đình thiên trúc đoạn tuyệt/ Nội gia vạn thư trường tồn. (Trước nhà ngàn cây tre, tuyệt hết/ Trong nhà vạn quyển sách, còn hoài).
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập với cộng đồng thế giới, ngôn ngữ vẫn là một phương tiện giao tiếp chủ yếu của loài người. Có dịp tiếp xúc và giao lưu với nhiều nền văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc khắp năm châu, sức sáng tạo của tiếng Việt lại càng thêm mạnh. Các bình diện ngữ âm, ngữ vựng và ngữ nghĩa của tiếng Việt không những tăng trưởng về số lượng mà còn phát triển về chất lượng nữa. Cùng với sự đa dạng về chất liệu và phương thức biểu hiện, văn hóa ngôn ngữ nói chung, nghệ thuật chơi chữ nói riêng của người Việt lại càng phong phú và sinh động. Tuy nhiên, để có một nền văn hóa ngôn ngữ đậm đà bản sắc dân tộc thì việc khuếch trương và quảng bá nghệ thuật chơi chữ trong tiếng Việt lại rất cần những chuẩn mực và những hoạt động nhất định. Những câu lạc bộ thơ, nhạc, thư pháp, những hoạt động văn hóa lễ hội phần nào cũng sẽ mang lại cho thế hệ trẻ nguồn sinh lực mới, vì bản thân sức hấp dẫn của văn hóa chơi chữ rất có thể đủ khả năng định hướng thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn cho thế hệ trẻ. Những sân chơi ấy sẽ tạo cho họ cơ hội góp phần vào công cuộc sáng tạo những giá trị mới cho nền văn hóa của dân tộc. Chơi chữ trở thành một thú chơi văn hóa của người Việt. Sưu tầm và sở hữu một tác phẩm thư pháp đẹp cũng là một phẩm chất độc đáo trong đời sống văn hóa của người Việt xưa. “Nhất bảo - Chữ” đã được người Việt xưa lưu trữ và giữ gìn như một báu vật, một thú chơi, một quan niệm minh triết thật đáng trân trọng!
Ghi chú
1. Lục Thư là chỉ 6 cách sáng tạo ra chữ Hán. Do người đời sau căn cứ vào sự hình thành của chữ Hán, chỉnh lý mà ra bao gồm có: Tượng Hình, Chỉ sự, Hình thanh, Hội ý, Giả tá, Chuyển chú. Trong đó Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh chủ yếu là cách tạo thành chữ Hán. Giả tá, chuyển chú là cách dùng chữ.
2. Tương truyền Mông Điềm, một tướng của Tần Thủy Hoàng đã chế ra loại bút lông này.
3. RHODES, Dives voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine, et autres Royaumes de L’Orient, Paris, 1653, tr.72.
4. Biền: hai con ngựa chạy sóng đôi; ngẫu: tình cờ hoặc từng cặp. Trong Thơ Thất ngôn Đường luật hai câu thực (câu 3 và 4) phải đối nhau, hai câu luận (câu 5 và 6) phải đối nhau.
Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/chu-mot-trong-tu-bao-cua-nguoi-viet-xua-a28881.html