Căn bệnh nguy hiểm chỉ từ vết thương nhỏ

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ cần cơ thể có những vết thương hở, xước, dù rất nhỏ, ấu trùng uốn ván sẽ xâm nhập và nhanh chóng sinh sôi.

 Các bào tử uốn ván sẽ xâm nhập vào cơ thể bệnh nhân thông qua các vết thương, vết rách dù nhỏ. Ảnh: Shutterstock.

Các bào tử uốn ván sẽ xâm nhập vào cơ thể bệnh nhân thông qua các vết thương, vết rách dù nhỏ. Ảnh: Shutterstock.

Bệnh uốn ván là bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn Clostridium tetani gây ra. Loại vi khuẩn này thường sống và phát triển trong đất, tro, đường ruột/phân của động vật và người, cũng như trên bề mặt da và các dụng cụ gỉ sét như đinh, kim, dây thép gai.

Nguyên nhân

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ cần cơ thể có những vết thương hở, xước, dù rất nhỏ, ấu trùng uốn ván sẽ xâm nhập và nhanh chóng sinh sôi, giải phóng chất tetanospasmin kịch độc.

Nạn nhân bị ảnh hưởng hệ thần kinh, tê liệt tế bào thần kinh vận động. Sau khi bị chất độc tetanospasmin tấn công, nạn nhân sẽ gặp hàng loạt triệu chứng co thắt đau đớn, cứng cơ hàm, cổ.

Một khi chất độc tetanospasmin do vi khuẩn uốn ván xâm nhập, bám vào các đầu dây thần kinh, nó không thể loại bỏ. Bệnh nhân có thể mất vài tháng thậm chí lâu hơn để hồi phục sau khi nhiễm trùng uốn ván.

Dấu hiệu nhận biết

Theo Mayo Clinic, thời gian trung bình từ khi nhiễm bệnh đến khi xuất hiện các dấu hiệu và triệu chứng (thời gian ủ bệnh) là 10 ngày. Thời gian ủ bệnh có thể dao động 3-21 ngày.

Loại uốn ván phổ biến nhất được gọi là uốn ván toàn thân. Các dấu hiệu và triệu chứng bắt đầu từ từ và sau đó trở nên nặng dần trong hai tuần. Chúng thường bắt đầu ở hàm và lan xuống dưới cơ thể.

Các dấu hiệu bệnh uốn ván bao gồm:

Co thắt cơ đau đớn và cứng, không cử động được cơ (cứng cơ) ở hàm
Căng cơ quanh môi
Co thắt đau đớn và cứng cơ cổ
Khó nuốt
Cơ bụng cứng

Sự tiến triển của uốn ván dẫn đến các cơn co thắt đau đớn, giống co giật, lặp đi lặp lại, kéo dài vài phút (co thắt toàn thân). Thông thường, cổ và lưng cong, chân cứng đờ, tay co lại sát thân và nắm chặt tay. Cứng cơ ở cổ và bụng có thể gây khó thở.

Khi bệnh tiến triển, các triệu chứng khác có thể bao gồm:

Tăng hoặc hạ huyết áp
Nhịp tim nhanh
Sốt
Đổ mồ hôi quá nhiều.

Các yếu tố rủi ro

Hầu hết trường hợp bị nhiễm trùng uốn ván đều xảy ra ở những người chưa từng tiêm chủng vaccine ngừa bệnh hoặc không tiêm nhắc lại sau 10 năm. Uốn ván không phải bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người.

Những người có nguy cơ bị nhiễm trùng uốn ván cao gồm có:

Chưa tiêm phòng vaccine hoặc không tiêm mũi nhắc lại chống uốn ván;
Bị chấn thương, vết thương hở tiếp xúc bụi bẩn, khi khuẩn;
Dẫm phải đinh, dị vật, mảnh vụn chứa nhiều vi khuẩn…
Có vết thương do xăm hình, bấm khuyên, bỏng, gãy xương, vết thương do phẫu thuật, vết động vật - côn trùng cắn, loét, nhiễm trùng răng miệng;
Rốn của trẻ sơ sinh.

Cách duy nhất phòng ngừa uốn ván

Một khi nhiễm phải uốn ván, cơ hội sống sót của bệnh nhân là rất thấp. Đến nay, y học vẫn chưa tìm ra cách điều trị bệnh mà các bác sĩ sẽ chỉ định can thiệp để giảm bớt các triệu chứng, biến chứng. Do đó, cách duy nhất để chúng ta hạn chế rủi ro nhiễm trùng uốn ván là tiêm phòng vaccine.

Việc tiêm phòng cần được thực hiện càng sớm càng tốt để phòng ngừa vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Thời gian tốt nhất là trong vòng 24 giờ kể từ khi có vết thương tiếp xúc với yếu tố rủi ro. Thời gian tiêm càng muộn, tác dụng bảo vệ càng giảm.

Phụ nữ chuẩn bị hoặc đang mang thai cần tiêm ngừa uốn ván để phòng bệnh cho con. Trẻ 2 tháng tuổi bắt đầu tiêm mũi đầu, 2 mũi sau tiêm cách nhau một tháng hoặc chích mũi nhắc khi trẻ được 15-18 tháng tuổi.

Trẻ trên 15 tuổi và người lớn cũng cần tiêm nhắc lại vì kháng thể uốn ván sẽ dần giảm tác dụng. Những người bị vết thương hở nhưng chưa tiêm phòng uốn ván cần tiêm vaccine và uống huyết thanh kháng càng sớm càng tốt.

Mai Phương

Nguồn Znews: https://lifestyle.znews.vn/can-benh-nguy-hiem-chi-tu-vet-thuong-nho-post1580129.html