Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Thành công nổi bật của Đảng ta trong vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng giải phóng dân tộc

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thành công này bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng ta trong quá trình chuẩn bị và lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn và tuyên đọc ngày 2/9/1945 được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Bích Nguyên

Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn và tuyên đọc ngày 2/9/1945 được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Bích Nguyên

Lịch sử cho thấy, trong suốt một thời gian dài, từ Đại hội I tới trước Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (1919-1935), các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc liên quan chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, theo các ông thì cách mạng ở chính quốc thắng lợi trước và sau đó giúp đỡ cách mạng ở thuộc địa giành thắng lợi. Điều này có thể được hiểu là cách mạng vô sản ở thuộc địa sẽ phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc và không thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc: “Sự giải phóng các thuộc địa có thể được chỉ cùng với sự giải phóng giai cấp công nhân ở chính quốc”[1]; “cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi và bảo vệ được những thành quả của mình chỉ cùng với cách mạng vô sản ở các nước tiên tiến”[2].

Ngay từ ngày đầu thành lập, trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Đảng ta đã nhận thức cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi thế giới. Trong khi Đại hội VI Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, đánh giá giai cấp tư sản dân tộc có phần tả khuynh, Đảng ta đặt nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trong việc xác định lực lượng cách mạng, chủ trương thực hiện mặt trận đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, xác định kẻ thù chủ yếu là đế quốc, tay sai. Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập hiến...) thì phải đánh đổ”[3].

Về mặt trận dân tộc thống nhất, quan điểm bao trùm được Đảng ta thực hiện là đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng xác định rõ, để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải huy động được sự tham gia của tuyệt đại đa số các thành phần trong cộng đồng dân tộc. Vì vậy, trong quá trình xây dựng mặt trận, Đảng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, với liên minh công-nông, đánh giá đúng khả năng cách mạng của từng giai tầng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng chuẩn bị tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước để tập hợp quần chúng nhân dân trong một tổ chức cách mạng, dưới sự lãnh đạo thống nhất. Ngày 18/11/1930, Đảng ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh. Đến ngày 26/7/1936, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng 3/1938, Đảng quyết định thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tiếp đó, Đảng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (11/1939), Mặt trận thống nhất dân tộc chống phát xít Pháp-Nhật ở Đông Dương (11/1940).

Ngày 10/5/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc. Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật-Pháp, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân vào các đoàn thể cứu quốc: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu vong, Quân nhân cứu quốc (sau đổi thành Hội Cựu binh sĩ cứu quốc-những quân nhân trong quân đội đế quốc ngả theo cách mạng), Tự vệ cứu quốc, Văn hóa cứu quốc... Sau này, tổ chức thêm Việt Nam cứu quốc hội, gồm những người yêu nước thuộc các thành phần tư sản dân tộc, viên chức... Để tập trung toàn bộ lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, Hội nghị khẳng định một lần nữa tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất được đề ra từ năm 1939 và thành lập Mặt trận Việt Minh.

Mặt trận Việt Minh là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dễ nhận thấy, trong hàng ngũ cách mạng chẳng những có công nhân, nông dân, mà còn có đại địa chủ, nhiều quan lớn của triều đình, đương chức hoặc đã về hưu; đáng chú ý là sự có mặt của nhiều vị tiêu biểu cho các tôn giáo. Các dân tộc miền núi có mặt ngay từ những ngày khởi nghĩa tại Hà Nội, Sài Gòn. Sức mạnh của Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của toàn dân Việt Nam có tổ chức, có lãnh đạo.

Khi thời cơ đến, trong hai ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đã nhóm họp tại Tân Trào có sự tham dự của đại biểu các đảng bộ trên cả ba miền, cùng đại biểu của Lào và kiều bào ở nước ngoài. Hội nghị khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập dân tộc đã tới”. Do đó, cần “tập trung lực lượng vào những việc chính”; “thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy”; “kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội”, nhằm đạt được “mục đích cuộc chiến đấu của ta lúc này là giành quyền độc lập hoàn toàn”[4]. Ngay sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, ngày 16/8/1945, tại đình Kim Long (Tân Trào), Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập đã được khai mạc trọng thể. Tham dự có trên 60 đại biểu thay mặt cho các đảng phái, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo của các địa phương trong cả nước cùng đại biểu Việt kiều ở Thái Lan và Lào. Đại hội nhất trí chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc của Đảng.

Các loại vũ khí được nhân dân ta sử dụng trong cao trào kháng phát xít Nhật năm 1945 được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Bích Nguyên

Các loại vũ khí được nhân dân ta sử dụng trong cao trào kháng phát xít Nhật năm 1945 được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Bích Nguyên

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo đã nhất tề đứng lên tiến hành khởi nghĩa, lập ra chính quyền của nhân dân. “Trên toàn quốc, từ Bắc chí Nam, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nổ ra không có đổ máu, ít nhất là không đổ máu giữa đồng bào Việt Nam, dù đó là người của chính quyền bù nhìn trước của Pháp, nay của Nhật. Tổng khởi nghĩa chống thực dân đồng thời là đại đoàn kết dân tộc”[5].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân, đánh đổ chế độ quân chủ lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đánh giá về ưu điểm lớn của Cách mạng Tháng Tám so với cách mạng ở một số nước khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng ở đâu thành công cũng phải đổ máu nhiều. Có nước phải chặt đầu vua. Có nước đồng bào chia đảng phái chém giết nhau liên tiếp trong bao nhiêu năm. Nước ta vua tự thoái vị, các đảng phái không có mấy. Trong một thời gian ngắn, các giai cấp đoàn kết thành một khối, muôn dân đoàn kết để mưu hạnh phúc chung là nước đến hoàn toàn độc lập và chống được giặc xâm lăng, đuổi thực dân tham ác ngoài bờ cõi”[6]. Thành công đó của Cách mạng Tháng Tám được bắt nguồn từ sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào trong thực tiễn của Đảng ta, cùng với sự hy sinh xương máu của biết bao cán bộ, đảng viên trung kiên trong suốt 15 năm kể từ khi thành lập (1930-1945). Chính vì vậy, những kinh nghiệm quý báu trong tập hợp lực lượng, chọn thời cơ và lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của Đảng ta sẽ mãi còn giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

[1] Viện Mác-Lênin, V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị, Mátxcơva, 1970, tr.143.

[2] Viện Mác-Lênin, V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb Chính trị, Mátxcơva, 1970, tr.447.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (1930), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.4.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.424-425.

[5] Trần Văn Giàu, “Đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám”. In trong: Trường Chinh-Lê Đức Thọ-Vũ Oanh-Trần Văn Giàu, Cách mạng Tháng Tám-Thời cơ nghìn năm có một, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.47.

[6] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.47-48.

Hải Hà

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/cach-mang-thang-tam-nam-1945-thanh-cong-noi-bat-cua-dang-ta-trong-van-dung-sang-tao-ly-luan-cach-mang-giai-phong-dan-toc-post492948.html