Bộ Tư pháp tổ chức tập huấn, phổ biến kiến thức pháp luật về phòng, chống tra tấn tại Gia Lai
Sáng 16/9, tại xã Ia Ly (tỉnh Gia Lai), Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai tổ chức Hội nghị tập huấn nội dung Công ước chống tra tấn và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn cho hơn 100 đại biểu là tuyên truyền viên pháp luật, người có uy tín trong cộng đồng, hòa giải viên ở cơ sở, người dân trên địa bàn xã Ia Ly.
Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc tên đầy đủ là Công ước chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác là một trong các văn kiện nhân quyền quốc tế, nhằm mục đích phòng, chống tra tấn trên toàn thế giới. Công ước chống tra tấn đã được Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1984 và có hiệu lực từ ngày 26/6/1987. Đây là 1 trong 9 Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người của Liên hợp quốc.
Đến hết tháng 12/2024, Công ước chống tra tấn đã có 175 quốc gia thành viên. Liên hợp quốc chọn ngày có hiệu lực của Công ước (ngày 26/6) là ngày Quốc tế ủng hộ các nạn nhân bị tra tấn hàng năm.
Với mong muốn bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người và quyền công dân, ngày 7/3/2015, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 158 của Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (gọi tắt là Công ước chống tra tấn hoặc Công ước CAT).
Việc triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn với nhiều giải pháp thiết thực và hiệu quả trong thời gian gần đây, càng khẳng định quyết tâm và chính sách nhất quán của Việt Nam trong công tác bảo đảm quyền con người. Việt Nam đã không ngừng cố gắng, nỗ lực triển khai tổng thể các biện pháp để thực hiện có hiệu quả các Công ước tại Việt Nam và đạt được những kết quả đáng ghi nhận, được các quốc gia, các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Tại Hội nghị, TS. Lê Thị Vân Anh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp (báo cáo viên pháp luật) đã giới thiệu quá trình nội luật hóa Công ước chống tra tấn tại Việt Nam với các văn bản đã được tập trung rà soát như: Hiến pháp năm 1992 (Điều 71, 72, 12); Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (Điều 299 tội bức cung; Điều 298 Tội dùng nhục hình; các Điều 107, 110, 121, 123, 319, 321, 340…); Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Chương 2 - Các nguyên tắc, Điều 6, 30, 31, 131…); Bộ luật dân sự 2005 (các Điều 31 khoản 3; Điều 32); Luật Thi hành án hình sự năm 2010; Pháp lệnh tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2004; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật Tố cáo năm 2011; Luật Khiếu nại năm 2011...
Sau khi gia nhập Công ước CAT, những nội dung, những vấn đề đã được xác định chưa phù hợp, chưa tương thích với Công ước ở giai đoạn trước đó sẽ được nội luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo lộ trình và chương trình xây dựng pháp luật.

TS. Lê Thị Vân Anh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp đã giới thiệu quá trình nội luật hóa Công ước chống tra tấn tại Việt Nam.
Ngay từ năm 2005, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ chủ trương này trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia”.
Theo đó, từ năm 2013 - thời điểm Việt Nam ký Công ước chống tra tấn đến nay, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, đặc biệt là những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp, đều nghiên cứu, đánh giá và thực hiện việc nội luật hóa các yêu cầu, đòi hỏi của Công ước chống tra tấn, trong đó có một số đạo luật lớn của đất nước, như Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Tại Hội nghị, báo cáo viên đã phân tích rất kỹ khái niệm “tra tấn” của Công ước và dấu hiệu pháp lý của hành vi “tra tấn” trên cả 04 mặt: (1) Chủ quan: Được thực hiện với lỗi cố ý; (2) Hành vi: Bất cứ hành vi nào gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người; (3) Mục đích: Để lấy thông tin hoặc trừng phạt vì một việc mà người đó đã làm vì lý do công vụ hoặc vì bất cứ lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình; (4) Chủ thể: Do nhân viên công quyền hoặc một người khác nhưng dưới sự đồng ý hoặc cho phép của một nhân viên công quyền.
Đồng thời, để bảo đảm xử lý đúng đắn, chính xác hành vi phạm tội, giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn xử lý tội phạm, báo cáo viên cũng đề cập về hành vi “tra tấn” cũng có thể là hành vi khách quan như: (i) Sử dụng vũ lực: tác động trực tiếp lên cơ thể con người: đánh đập, đâm chém, dùng điện, để đói, khát, ăn nhạt, bắt đứng hoặc quỳ dưới sức nóng của ngọn đèn cao áp giữa những ngày nóng, oi bức, bắt cởi quần áo trong trời giá rét; (ii) Hoặc bằng lời nói thô bạo: tác động vào tâm lý, tinh thần, tình cảm người khác như sỉ nhục, lăng mạ người đó hoặc người thân của người đó (như cha, mẹ, vợ, con, người thân khác hoặc đồng chí, đồng đội). Hậu quả là gây đau đớn và khổ sở nghiêm trọng cho cả tinh thần và thể xác, tâm lý của người bị tra tấn.
Báo cáo viên cũng đã giới thiệu việc hình sự hóa hành vi tra tấn theo yêu cầu của Công ước. Trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015, cơ quan chủ trì đã rà soát nghiên cứu tất cả các điều ước quốc tế có liên quan, trong đó có Công ước chống tra tấn; đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng sự tương thích, tính phù hợp và phạm vi đáp ứng được các yêu cầu của Công ước; xác định những nội dung, những vấn đề mà Bộ luật hình sự chưa tương thích, chưa hài hòa hoặc còn là khoảng trống so với yêu cầu của Công ước; xây dựng những quy định phù hợp.
Theo đó, để phù hợp Công ước yêu cầu phạm vi hình sự hóa tương đối rộng, không chỉ hạn chế trong phạm vi hoạt động tố tụng mà hành vi tra tấn có thể xảy ra trong tất cả các hoạt động có mang tính thực thi công quyền, Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định những hành vi tương đồng với khái niệm “tra tấn” mà Điều 1 Công ước đưa ra là hành vi phạm tội và sẽ bị xử lý về những tội danh khác nhau theo quy định của Bộ luật hình sự.
Đồng thời, để xử lý trực tiếp các hành vi tra tấn, Bộ luật hình sự đã sửa đổi chính sách xử lý theo hướng nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội. Bộ luật hình sự đã quy định một số tội danh để xử lý trực tiếp các hành vi tra tấn như Tội dùng nhục hình; Tội bức cung… và một số tội danh liên quan khác của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng có thể vận dụng để xử lý hình sự đối với hành vi tra tấn: Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; Tội hành hung đồng đội; Tội làm nhục đồng đội...
Báo cáo viên cũng đã giới thiệu một số nội dung Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự liên quan đến chống tra tấn như nội dung hạn chế hình phạt tử hình: (i) Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội; phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; (ii) Không thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người từ đủ 75 tuổi trở lên; người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự cũng đã dự kiến bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh như tội gián điệp; tội nhận hối lộ; tội tham ô tài sản... hoặc chuyển hình phạt tử hình thành tội chung thân trong một số trường hợp nhất định.
Như vậy, có thể thấy, các quy định liên quan của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở bảo đảm nội luật hóa theo yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn, bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của con người thông qua các chế định về quyền tài phán và các tội phạm liên quan đến tra tấn.
Ngoài ra, báo cáo viên cũng đã giới thiệu việc bảo vệ quyền con người, quyền không bị tra tấn còn được quy định tại một số văn bản pháp luật khác có liên quan như Pháp luật tố tụng hình sự; Pháp luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự; Luật Thi hành tạm giữ tạm giam; Luật Tư pháp người chưa thành niên; Luật Phòng, chống mua bán người...
Từ những kết quả đã đạt được, cho thấy Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của Công ước chống tra tấn, đồng thời luôn thực hiện đúng, đầy đủ các quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Tại Hội nghị, nhiều ý kiến phát biểu của các đại biểu tham dự tập trung chia sẻ, thảo luận nhiều câu hỏi, tình huống, sự tương tác, trao đổi với báo cáo viên. Nhiều vấn đề vướng mắc cụ thể phát sinh từ thực tiễn đã được giải đáp, hướng dẫn và tháo gỡ, giúp người tham dự Hội nghị các có kiến thức pháp luật sâu hơn, từ đó có giải pháp và kỹ năng, phương pháp để phòng, chống tra tấn; góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Hội nghị được tổ chức góp phần tạo nhận thức thống nhất và đầy đủ trong mỗi cá nhân; nâng cao trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội trong công tác phòng, chống tra tấn với mục tiêu vì cộng đồng, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn.