Bài 1: Tiềm năng và cơ hội lớn nhưng thách thức còn nhiều

Tây Nguyên đứng trước cơ hội to lớn, nhưng cũng đối diện không ít thách thức, cần phải tăng cường kết nối giữa các tỉnh trong vùng và với các vùng lân cận.

Cơ hội và tiềm năng lớn

Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, được ví như "nóc nhà của Đông Dương”, thuộc khu vực Tam giác phát triển Lào - Việt Nam - Campuchia; có diện tích tự nhiên khoảng 54.548 km2, lớn thứ ba cả nước với dân số gần 6 triệu người; cùng khí hậu, thổ nhưỡng và nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm mà không nơi nào có được. Đặc biệt, Tây Nguyên có khoảng 1 triệu ha đất đỏ bazan màu mỡ, hơn 3 triệu ha rừng, chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước, và khoảng 10 tỷ tấn trữ lượng bauxit, chiếm 90% trữ lượng bauxit cả nước,...

Ngành trồng hoa công nghệ cao đang mang lại cho người dân tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng có nguồn thu nhập ổn định, bền vững. (Ảnh: Lê Sơn)

Ngành trồng hoa công nghệ cao đang mang lại cho người dân tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng có nguồn thu nhập ổn định, bền vững. (Ảnh: Lê Sơn)

Các tỉnh Tây Nguyên có hệ thống giao thông kết nối với các cảng biển quan trọng của vùng Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và là đầu nguồn của 4 con sông lớn gồm sông Sê San, sông Srepok, sông Ba và sông Đồng Nai, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết, cung cấp nước ngọt cho khu vực hạ du của các địa phương thuộc hai vùng Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ.

Cây cà phê đang là cây chủ lực của cả vùng Tây Nguyên. (Ảnh: Lê Sơn)

Cây cà phê đang là cây chủ lực của cả vùng Tây Nguyên. (Ảnh: Lê Sơn)

Tây Nguyên cũng là vùng có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế rừng, chế biến nông lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, phát triển du lịch gắn với bản sắc văn hóa dân tộc bản địa phong phú và đa dạng.

Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng Tây Nguyên, ngày 18/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10 và Kết luận số 12, ngày 24/10/2011 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10 về phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020.

Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương trong Vùng đã khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế của mình. Cơ cấu kinh tế của Vùng dịch chuyển theo hướng tích cực và phù hợp với mô hình tăng trưởng kinh tế, tập trung vào phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thủy điện, khai khoáng, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản xuất khẩu. Trong đó, tỷ trọng ngành công nghiệp có xu hướng tăng, trở thành động lực tăng trưởng chính của Vùng. Quy mô kinh tế của Vùng được mở rộng, tăng nhanh.

Theo đó, quy mô GRDP năm 2020, theo giá hiện hành của vùng Tây Nguyên đạt 287 nghìn tỷ đồng, gấp 14,1 lần năm 2002 và tăng gần 8%/năm, tốc độ tăng trưởng của các khu vực kinh tế đều cao nhất so với các vùng. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 48 triệu đồng, gấp 10,6 lần năm 2002. Tây Nguyên trở thành vùng sản xuất một số sản phẩm nông sản chủ lực quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả.

Du lịch có bước phát triển khá, hình thành các chuỗi phát triển du lịch liên vùng, đang trở thành vùng du lịch sinh thái, văn hóa có bản sắc, sức hấp dẫn. Giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy; tổng thu ngân sách trên địa bàn vùng Tây Nguyên được cải thiện, đáp ứng dần khả năng cân đối của địa phương. Hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, được quan tâm đầu tư, giúp cải thiện đáng kể sự kết nối giữa các tỉnh trong Vùng, và giữa Vùng với cả nước.

Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học đã được quan tâm. Công tác quản lý bảo vệ phát triển rừng, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước đã được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng và được xác định là vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với sinh kế của người dân trong Vùng. Việc giao đất, cho thuê đất, định canh, định cư đã được triển khai thực hiện kịp thời, từng bước khắc phục được tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở…

Thách thức không nhỏ

Tuy đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua nhưng trong quá trình phát triển, vùng Tây Nguyên còn tồn tại khó khăn, hạn chế như phát triển kinh tế của Vùng chưa bền vững; chất lượng tăng trưởng thấp; thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước. Khoảng cách giàu - nghèo giữa các nhóm dân tộc, nhất là của nhóm các đồng bào dân tộc bản địa, chậm được thu hẹp. Giảm nghèo chưa bền vững, số hộ nghèo và cận nghèo còn nhiều, nguy cơ tái nghèo còn cao; tỉ lệ xã đạt chuẩn “Nông thôn mới” còn thấp.

Cuối tháng 3/2024 vừa qua, Đoàn công tác của Bộ Công Thương do đồng chí Phan Thị Thắng, Thứ trưởng Bộ Công Thương làm trưởng đoàn đã đi khảo sát vùng nguyên liệu thuốc lá tại tỉnh Gia Lai. (Ảnh: Lê Sơn)

Cuối tháng 3/2024 vừa qua, Đoàn công tác của Bộ Công Thương do đồng chí Phan Thị Thắng, Thứ trưởng Bộ Công Thương làm trưởng đoàn đã đi khảo sát vùng nguyên liệu thuốc lá tại tỉnh Gia Lai. (Ảnh: Lê Sơn)

Mặt khác, Tây Nguyên vẫn đang đối mặt với không ít thách thức như: Hạ tầng giao thông kết nối các địa phương trong vùng và với các vùng lân cận chưa đồng bộ, gây khó khăn cho phát triển kinh tế, xã hội. Vấn đề mất cân bằng sinh thái, phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bất hợp lý cũng là những thách thức lớn đang đe dọa môi trường sống của người dân.

Tây nguyên có khoảng 10 tỷ tấn trữ lượng bauxit, chiếm 90% trữ lượng bauxit cả nước. (Ảnh: Lê Sơn)

Tây nguyên có khoảng 10 tỷ tấn trữ lượng bauxit, chiếm 90% trữ lượng bauxit cả nước. (Ảnh: Lê Sơn)

Để thúc đẩy liên kết vùng Tây Nguyên, các chuyên gia cho rằng cần tập trung vào một số giải pháp then chốt. Trước hết, đầu tư đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc nhằm tăng cường kết nối giữa các tỉnh trong Vùng và với các Vùng lân cận. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động kỹ thuật, công nghệ cao phục vụ cho các ngành kinh tế mũi nhọn. Đẩy mạnh liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tạo chuỗi giá trị gia tăng hiệu quả, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Song song đó, cần có những chính sách đặc thù, ưu tiên đầu tư phát triển vùng Tây Nguyên, nhất là về cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế mũi nhọn. Chính quyền và người dân cũng cần chung tay bảo vệ, phục hồi và phát triển bền vững tài nguyên rừng, nguồn nước, nhằm duy trì cân bằng sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thúc đẩy liên kết giữa Tây Nguyên với các vùng miền khác trong cả nước cũng là một giải pháp quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực cho sự phát triển chung.

Việc thúc đẩy liên kết phát triển vùng không chỉ mang lại lợi ích cho địa phương, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển chung của cả nước. Đây là nhiệm vụ cần sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, nỗ lực của các cấp chính quyền, sự đồng hành của doanh nghiệp và người dân vùng Tây Nguyên.

Bài 2: Động lực cùng phát triển kinh tế, xã hội.

Lê Sơn

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/bai-1-tie-m-nang-va-co-hoi-lon-nhung-thach-thuc-co-n-nhie-u-322297.html