Vững một niềm tin - Bài 4: Đột phá vùng kinh tế động lực
Trong phát triển kinh tế, nếu như nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu để tạo sự ổn định trong quá trình phát triển, thì với vị trí là cửa ngõ giao thương với Trung Quốc, kinh tế cửa khẩu được tỉnh xác định là động lực, tạo sự đột phá để thúc đẩy phát triển.

Các đại biểu thực hiện nghi thức gắn biển công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII tại dự án mở rộng đường vận chuyển hàng hóa chuyên dụng khu vực mốc 1119 - 1120 Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị (Ngày 30/6/2025) - Ảnh: GIA KHÁNH
Sau chiến tranh biên giới, hoạt động thương mại biên giới bị đình trệ. Bước sang năm 1988, Đảng ta đề đường lối đối ngoại thể hiện thiện chí hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, điểm nhấn quan trọng là Thông báo số 118-TB/TW của Ban Bí thư về việc cho Nhân dân các bản sát biên được sang Trung Quốc thăm thân và trao đổi hàng hóa thiết yếu.
Lãnh đạo thực hiện chính sách mở cửa
Mở cửa là cơ hội, song cũng là thách thức đối với tỉnh biên giới như Lạng Sơn. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo xây dựng quy chế, chủ trương, biện pháp để thực hiện đồng thời các nhiệm vụ. Trong đó, một mặt Tỉnh ủy lãnh đạo các lực lượng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn khu vực biên giới. Mặt khác, tỉnh chỉ đạo triển khai các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho Nhân dân khu vực biên giới qua lại thăm thân, trao đổi hàng hóa.
Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh, trong thời gian này, tình hình biên giới có thay đổi nhanh chóng. Người dân hai bên biên giới qua lại thăm thân, trao đổi mua bán ngày càng nhiều. Nhân dân các huyện, các tỉnh nội địa cũng tập trung đến các cửa khẩu tham gia vào hoạt động buôn bán làm cho khu vực biên giới thêm sôi động.
“Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xác định phải tận dụng tối đa thế mạnh về cửa khẩu để hàng hóa trong tỉnh, trong cả nước xuất khẩu sang thị trường rộng lớn Trung Quốc. Muốn làm vậy, trước tiên ta phải trao đổi, thống nhất với các cơ quan liên quan của Quảng Tây (Trung Quốc), song song với đó là tập trung đầu tư hạ tầng khu vực cửa khẩu, trọng tâm là hạ tầng giao thông.”
Đồng chí Vy Xuân Thanh, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy
Ngày 7/11/1991, Hiệp định tạm thời về biên giới Việt Nam - Trung Quốc được ký kết, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước. Trên cơ sở đó, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI – vòng 2 (được tổ chức từ ngày 18 đến ngày 21/11/1991) đã thảo luận và đề ra phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 1991 – 1995, trong đó xác định: Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc. Quán triệt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình và phát triển”, thực hiện tốt quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc theo Hiệp định tạm thời ngày 7/11/1991.
Đồng chí Vy Xuân Thanh, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy (từ tháng 11/1991 đến tháng 12/2000) nhớ lại thời kỳ này: Thời điểm bấy giờ Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xác định phải tận dụng tối đa thế mạnh về cửa khẩu để hàng hóa trong tỉnh, trong cả nước xuất khẩu sang thị trường rộng lớn Trung Quốc. Muốn làm vậy, trước tiên ta phải trao đổi, thống nhất với các cơ quan liên quan của Quảng Tây (Trung Quốc), song song với đó là tập trung đầu tư hạ tầng khu vực cửa khẩu, trọng tâm là hạ tầng giao thông.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, hàng loạt các cuộc hội đàm giữa Lạng Sơn và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) được tổ chức. Điển hình là cuộc hội đàm ngày 6 và 7/1/1992 tại Lạng Sơn giữa lãnh đạo hai tỉnh - khu và một số doanh nghiệp của hai bên. Tại cuộc gặp này, hai bên đã thống nhất nhiều vấn đề quan trọng về cửa khẩu, điểm họp chợ và đường qua lại; về trao đổi hàng hóa, hợp tác kinh tế - kỹ thuật… Đây là những vấn đề cơ bản đặt nền móng cho sự hợp tác phát triển thương mại biên giới giai đoạn sau này.
Cùng đó, tỉnh đã khảo sát, đề xuất, báo cáo Trung ương đầu tư các tuyến đường ra cửa khẩu. Với quyết tâm lớn của cả tỉnh, những tuyến đường đất nhỏ hẹp ra cửa khẩu Tân Thanh, Hữu Nghị, Cốc Nam, Chi Ma, Bình Nghi… từng bước được thay thế bởi những tuyến đường nhựa phẳng lỳ, êm thuận. Cở sở hạ tầng – kỹ thuật khu vực cửa khẩu không ngừng được đầu tư, nâng cấp và ngày càng đồng bộ.
Những bước triển khai phù hợp trong giai đoạn đầu mở cửa đã từng bước phát huy lợi thế về thương mại biên giới của tỉnh, thúc đẩy ngành thương mại, dịch vụ tăng trưởng ở mức cao. Sau gần 20 năm đổi mới, năm 2005 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh đã đạt trên 380 triệu USD; nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng 320,75% (quy mô kinh tế tăng gấp 4,2 lần). Trong đó, ngành thương mại - dịch vụ tăng gấp 11,6 lần, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2006 – 2010 được tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3/4/2006 nhận định tình hình trong 5 năm tới: “Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; Trung Quốc thúc đẩy việc xây dựng thị trường tự do với ASEAN, thực hiện chương trình “thu hoạch sớm”, tích cực chuẩn bị cho việc mở rộng hợp tác với nước ta và các nước Đông Nam Á thông qua các địa bàn đầu mối, trong đó có Lạng Sơn…”. Đây là dự báo rất quan trọng để Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo, trong đó xác định: “Tập trung phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và kinh tế cửa khẩu, coi đây là lĩnh vực mũi nhọn, khâu đột phá trong thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh”. Từ đây đặt nền móng cho các bước đi tiếp theo để xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu.
Khu kinh tế động lực
Thực hiện chương trình hành động của Tỉnh ủy, tháng 7/2006, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Đề án “Xây dựng và phát triển vùng kinh tế động lực của tỉnh giai đoạn 2006 – 2010”. Gần hai năm sau đó, ngày 28/4/2008, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt Đề án xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn; tháng 10/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn.
Đúng vào ngày đầu năm mới, ngày 1/1/2009, UBND tỉnh tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn. Phát biểu tại buổi lễ đồng chí Vy Văn Thành, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh lúc bấy giờ khẳng định: Với diện tích 394 km2, Khu Kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn được xác định là vùng kinh tế động lực chủ đạo, phát triển đô thị, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, cùng với sự phát triển của Khu kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Từ đó phát triển thành trục tứ giác kinh tế trọng điểm Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đây là cơ hội lớn cho tỉnh trong việc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định vị trí của Lạng Sơn đối với sự phát triển của Khu kinh tế trọng điểm vùng Bắc Bộ.
Ngay sau đó, ngày 3/4/2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 22 về triển khai, thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn. Nghị quyết đã định đường hướng để các cấp, ngành cụ thể hóa bằng các quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình hành động.
Trên cơ sở các quy hoạch đã được lập và phê duyệt, tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách; quy hoạch và đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tại khu kinh tế. Tính đến năm 2015, tỉnh đã tập trung nguồn lực, triển khai trên 60 dự án với tổng vốn gần 5.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2011 - 2015, cấp có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 28 dự án trong khu kinh tế với tổng vốn đầu tư trên 1,5 nghìn tỷ đồng.
Nếu như giai đoạn 2011 – 2015 được coi là giai đoạn tạo đà, thì giai đoạn 2016 – 2020 và 2020 - 2025 được coi là giai đoạn tăng tốc. Việc “Phát triển nhanh Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn”; “Tập trung phát triển nhanh kinh tế cửa khẩu, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh” đều là chương trình trọng tâm số một trong Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2016 - 2020) và lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2020 - 2025). Những chương trình đó được cụ thể hóa bằng hàng loạt các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư; nâng cấp hạ tầng cửa khẩu; phát triển dịch vụ logistics; tiện lợi hóa thông quan… Đặc biệt trong giai đoạn 2021 – 2025, Lạng Sơn là tỉnh đầu tiên triển khai, đưa nền tảng cửa khẩu số vào hoạt động và đang tiếp tục triển khai đề án thí điểm xây dựng cửa khẩu thông minh. Cũng trong giai đoạn này, trung bình mỗi năm có khoảng 3.000 doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa các loại hình đạt 198 tỷ USD; kim ngạch xuất nhập khẩu mở tờ khai tại Hải quan Lạng Sơn đạt 24,4 tỷ USD.
Từ một tỉnh miền núi, biên giới với đầy rẫy những khó khăn, bám sát đường lối đổi mới của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Lạng Sơn đã từng bước phát huy được lợi thế thương mại biên giới, kinh tế cửa khẩu thực sự đã trở thành động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác. Từ một tỉnh nghèo, Lạng Sơn đã và đang trở thành một trong những trung tâm logistics, trung tâm đầu mối hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, du lịch và kinh tế cửa khẩu trọng điểm của cả nước.
(Còn nữa)
Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/vung-mot-niem-tin-bai-4-5055122.html