Vẫn chưa có bài toán giải quyết mặt trái của thủy điện
Trận lũ lụt lịch sử đang xảy ra ở các tỉnh Nam Trung bộ, gây thiệt hại rất lớn. Nguyên nhân lũ lụt là do mưa quá lớn và các hồ thủy điện xả lũ ồ ạt. Hai mặt của thủy điện vẫn là bài toán chưa thể giải được. Có cách nào để hạn chế thiệt hai của việc xả lũ?
Đây là trận lũ lịch sử hơn 30 năm qua, kể từ cơn lũ kinh hoàng năm 1993 tại khu vực Nam Trung bộ, gây thiệt hại là rất lớn, cả về nhân mạng lẫn cơ sở hạ tầng.
Nguyên nhân làm nên cơn lũ lịch sử này là do mưa quá lớn trên địa bàn và các hồ thủy điện, thủy lợi xả lũ để cứu hồ đập.
Thủy điện sông Ba Hạ xả lũ lịch sử
Thủy điện sông Ba Hạ đến chiều tối 19.11 đã nâng mức xả lũ lên 15.000m³/giây – đây là mức cao trong lịch sử xả lũ ở nước ta, mà ngay cả thủy điện lớn như Hòa Bình, Lai Châu... cũng chưa từng xả đến mức lớn như vậy. Với mức xả này, đã làm toàn bộ vùng hạ lưu ngập lũ, trong đó có TP.Tuy Hòa (cũ).

Ngày 19.11, Ban Chỉ huy Phòng tủ dân sự tỉnh Đắk Lắk đã có công văn đề nghị chủ hồ thủy điện sông Ba Hạ “vận hành với lưu lượng xả nhỏ hơn lưu lượng đến hồ để tích dần mực nước đến mực nước thiết kế 105,96m nhằm giảm lũ cho hạ du…”.
Mỗi giây, khu vực hạ du sông Ba đang gánh gần 111.000 m3 nước xả ra từ các hồ thủy điện, thì cả hạ du, kể cả Tuy Hòa ngập là điều tất nhiên.
Tại Gia Lai, lũ cũng làm ngập sâu toàn bộ vùng Đông Tuy Phước, một phần Quy Nhơn. Trong khi đó, mưa rất lớ, có lúc lên đến 400-500mm.
Nhà máy thủy điện An Khê - Ka Nak, hồ thủy lợi Định Bình phải xả lũ. Chiều 19.11, Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Anh Tuấn yêu cầu các hồ thủy điện, thủy lợi phải vận hành an toàn, cắt giảm lũ cho hạ du, không để mất an toàn hồ đập.

Theo lãnh đạo Công ty cổ phần Thủy điện Sông Ba Hạ, mức xả 16.100 m3/s là mức lớn nhất trong lịch sử vận hành của thủy điện này và hoàn toàn nằm trong Quy trình vận hành hồ chứa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Vùng Nha Trang, thậm chí Phan Rang cũ cũng chìm trong biển nước. Hồ Sông Cái có dung tích gần 220 triệu khối vẫn tiếp tục xả lũ với lưu lượng lên 1.230m³/s. Nhiều hồ khác trong khu vực này cũng xả lũ hết công suất có thể. Tính từ 17.11, trong 3 ngày, dân Nha Trang phải 3 lần chạy lũ, mực nước đạt đỉnh tương đương lũ lịch sử 1986.
Sáng 20.11, thủy điện Đa Nhim xả lũ với lưu lượng hơn 2.500m³/s khiến xã D’Ran và Ka Đô (tỉnh Lâm Đồng) ngập nặng, hàng trăm căn nhà tan hoang, nhiều người dân trắng tay.
Thông tin lãnh đạo tỉnh Gia Lai và Ban Chỉ huy Phòng tủ dân sự tỉnh Đắk Lắk đề nghị các hồ thủy điện hạn chế xả lũ để làm giảm áp lực cho vùng hạ du, cũng có những ý kiến khác nhau. Nếu xả lũ để cắt ngập, thì hồ chứa nước thủy điện có nguy cơ bị vỡ; mà nếu xả để an toàn hồ thì hạ du ngập rất nguy hiểm.
Sáng 20.11, Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện quốc gia (NSMO) thông báo, thủy điện Sông Ba Hạ đang phải xả lũ với tổng lưu lượng ~ 15.000m3/s (tương đương với hơn 30 lần lưu lượng chạy máy). Như vậy, tổng công suất các hồ thủy điện xả lên đến 11.600MW (trên tổng số 19.600MW thủy điện toàn hệ thống).
Theo NSMO, do tác động của các đợt mưa lớn kéo dài khiến số lượng các hồ chứa thủy điện phải xả điều tiết vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, hiện tại số lượng hồ xả vẫn duy trì ở 86/122 hồ (trong đó miền Bắc: 27 hồ, miền Trung: 44 hồ, miền Nam: 15 hồ).
Đó là nguyên nhân gây đợt lũ lụt như vừa qua ở nhiều tỉnh thành Nam Trung bộ.
Vẫn chưa thể khắc chế được hai mặt của thủy điện
Thủy điện luôn có hai mặt, và cũng là nguồn điện nền trong hệ thống điều độ điện quốc gia nhưng tồn tại mặt trái của nó. Giải quyết bài toán nghịch lý này rất khó, dù khoa học thủy lợi đã có nhiều tiến bộ.
Theo các chuyên gia, lưu vực sông Ba rộng 13.000km2, có đến 280 hồ chứa lớn nhỏ, tích nước khoảng 1,6 tỉ m3 nhưng chỉ có 6 hồ có chức năng cắt lũ với 530 triệu m3. Như vậy có thể thấy lưu vực này cắt lũ rất thấp.
Đối với Sông Ba Hạ, hệ thống không dài, từ khi xả lũ cho đến khi nước lên ở hạ lưu rất nhanh. Dù người dân có thể biết trước kịch bản nước lên nhanh nhưng vẫn bất ngờ, không ứng phó kịp.
Theo ông Nguyễn Đức Phú, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy điện Sông Ba Hạ, thủy điện này xả lũ ở mức 16.100 m3/s vẫn nằm trong quy trình vận hành hồ chứa. Nếu không xả theo đúng quy trình, hồ chứa có nguy cơ vượt giới hạn kỹ thuật, gây hậu quả nghiêm trọng cho cả thượng lưu lẫn hạ du. Vì vậy, quyết định xả lũ được tính toán chặt chẽ, theo từng bước, dựa trên dữ liệu thực tế và dự báo khí tượng.
"Chúng tôi luôn nỗ lực tối đa, bằng mọi phương án để hài hòa hai mục tiêu quan trọng nhất là an toàn cho hồ và đập, giảm hạn chế tối thiểu tác động vùng hạ du”, ông Phú chia sẻ.
Hệ thống xả lũ liên hồ thủy điện được xây dựng và quản lý bởi NSMO. Các công ty này sẽ phối hợp với các thủy điện để điều phối việc xả lũ dựa trên tình hình thực tế của dòng chảy và lượng mưa, nhằm đảm bảo an toàn cho vùng hạ du và vận hành hệ thống điện quốc gia. Tuy nhiên hệ thống này đã hoàn chỉnh chưa?
NSMO hiện đang áp dụng công nghệ Nhật Bản để quản lý một số hồ lớn như Hòa Bình, Sơn La, lắp đặt thiết bị đo tự động lưu lượng nước trên sông, ngay tại biên giới, liên tục cập nhật số liệu về máy chủ. Trên cơ sở này, tính toán, quyết định vận hành các hồ chứa phù hợp nhất. Nhưng nhiều hồ thủy điện khác vẫn chưa cập nhật công nghệ tối ưu nên còn nhiều bất cập.
Cần nhớ rằng, không phải hồ đập nào cũng cắt được lũ. Hồ cắt được lũ là hồ đa mục tiêu (vừa cấp nước cho nông nghiệp, vừa phát điện, vừa chống lũ...) hoặc hồ chuyên dụng; những hồ lớn, có dung tích "chờ lũ" khổng lồ (như Hòa Bình, Sơn La có dung tích ~9 tỉ m³), cũng như khả năng tích nước - giữ nước đáng kể dù đã xả một phần để chờ lũ khi có cảnh báo mưa lớn. Còn lại đa phần không thể cắt được lũ, như các thủy điện nhỏ, bậc thang, sông ngắn. Đây cũng là đặc trưng các thủy điện ở miền Trung hiện nay, bao gồm nhiều thủy điện từ Huế đến Ninh Thuận.
Và bài toán này cho đến nay vẫn chưa thể giải quyết được, bằng chứng là khu vực này vẫn bị những trận lũ lụt lịch sử như đã từng và đang xảy ra.











