Thông báo xả lũ song dân không biết mực nước dâng - Lỗ hổng trong cảnh báo thiên tai
Trong các đợt mưa lũ gần đây, tại nhiều địa phương có thủy điện nhỏ hoặc thủy điện dẫn dòng, trong đó có tỉnh Cao Bằng, xuất hiện một hiện tượng đặc biệt đáng lo ngại: nhà máy thủy điện có thông báo xả lũ, nhưng xã, phường hạ du và người dân lại không hình dung được mức độ ảnh hưởng cụ thể - nước sẽ dâng bao nhiêu, dâng nhanh thế nào, có tràn vào nhà hay không. Hậu quả là, người nhận thông tin thì chủ quan, còn khi lũ về thì lại bị động, bất ngờ và thiệt hại.
Thông báo xả lũ mang tính hình thức
Một thông báo xả lũ, nếu chỉ ghi vắn tắt “bắt đầu xả từ 14h, lưu lượng 130 mét khối mỗi giây” mà không kèm theo thông tin nước sẽ dâng đến đâu, thời gian nước về tới nơi là bao lâu, có ngập thôn bản nào không, xã, phường không thể sử dụng để ra quyết định cảnh báo, sơ tán hay hướng dẫn dân. Người dân thì càng khó hiểu, vì các thông số kỹ thuật ấy không gắn với đời sống thực tế. Việc thiếu thông tin cụ thể khiến nhiều xã/phường chỉ “đọc loa cho có”, còn dân thì không biết mình có nằm trong vùng nguy hiểm hay không.
Thực tế đã xảy ra không ít trường hợp: thủy điện có thông báo xả, nhưng đồng thời mưa lớn trút xuống khu vực thượng lưu, dẫn đến dòng nước dồn về hạ du mạnh hơn dự kiến. Chỉ sau 30 đến 45 phút, nước đã tràn vào sân nhà dân, ruộng ngô, bãi chăn thả - nhưng người dân hoàn toàn bị bất ngờ. Dần dần, do không thấy tác dụng cụ thể, thông báo xả lũ bị coi như hình thức. Người nghe thì chủ quan, người cảnh báo thì không đủ căn cứ.

Người dân các xã, phường khu vực trung tâm tỉnh bất ngờ trước tình trạng nước lũ dâng nhanh gây ngập lụt nghiêm trọng trong cơn bão số 10.
Một trong những nguyên nhân là do đặc điểm kỹ thuật của các công trình thủy điện nhỏ và dẫn dòng: hầu như không có hồ chứa đủ dung tích để phòng lũ. Khi mưa lớn, nước về là phải xả ngay, thậm chí xả tự do qua tràn. Thêm vào đó, nhiều dòng suối có tới hai hoặc ba nhà máy nhỏ nối tiếp nhau, nếu không điều phối giờ xả lệch nhau, các dòng xả sẽ chồng lên nhau, gây ra “lũ chồng lũ”. Tuy nhiên, hiện tại không tồn tại các bảng quy đổi đơn giản kiểu “xả bao nhiêu thì xã nào ngập bao nhiêu” để cán bộ xã, phường tham khảo, nên không ai biết khi nào cần cảnh báo, khi nào phải hành động.
Không chỉ thiếu thông tin trong thông báo, điều đáng nói hơn là hầu hết các địa phương không được cung cấp bản đồ vùng ngập hạ du tương ứng với từng kịch bản xả lũ - một công cụ cực kỳ quan trọng để dự đoán mức độ nguy hiểm theo từng dòng chảy. Theo quy định tại Nghị định 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2028 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước, chủ đầu tư công trình thủy điện bắt buộc phải lập bản đồ vùng ngập lụt khi xả lũ, vỡ đập hoặc sự cố công trình, và gửi đến chính quyền cấp xã, phường - là cấp chỉ huy ứng phó tại chỗ. Tuy nhiên, rất nhiều nhà máy chưa làm, hoặc có làm nhưng không gửi, hoặc gửi mà không giải thích cách sử dụng.
Song song đó, hệ thống quan trắc như mực nước hồ, lưu lượng xả, lượng mưa… vẫn chưa được kết nối thời gian thực về Sở Nông nghiệp và Môi trường, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn khu vực, hoặc Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự tỉnh - mặc dù luật đã quy định rõ. Điều này khiến cấp tỉnh không có dữ liệu để hỗ trợ điều hành; còn cấp xã thì gần như “mù thông tin”.
Việc thiếu bản đồ ngập, thiếu kết nối dữ liệu, thiếu mẫu thông báo chuẩn… đã tạo nên một khoảng trống nguy hiểm trong hệ thống cảnh báo sớm. Khi xã, phường không được cung cấp thông tin rõ ràng, dân không hiểu nguy cơ, thì ngay cả khi có “thông báo xả”, toàn bộ hệ thống phòng tránh thiên tai ở cấp cơ sở bị đặt trong thế bị động.
Trách nhiệm thuộc về ai?
Trước hết, chủ đầu tư công trình thủy điện là bên phải chịu trách nhiệm chính. Họ là người vận hành, có đủ dữ liệu về mực nước, dòng chảy, độ dốc địa hình và khả năng ảnh hưởng tới vùng hạ du. Pháp luật đã quy định rõ nghĩa vụ lập bản đồ ngập, cắm mốc cảnh báo, truyền dữ liệu thời gian thực và gửi thông báo đầy đủ tới chính quyền cơ sở.
Thứ hai, Sở Công thương là cơ quan cấp phép và giám sát hoạt động vận hành điện lực phải có trách nhiệm kiểm tra định kỳ, yêu cầu nhà máy thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thông tin.
Thứ ba, Sở Nông nghiệp và Môi trường, với vai trò thường trực phòng chống thiên tai, phải chủ trì xây dựng mẫu thông báo xả lũ thống nhất toàn tỉnh, tổng hợp bản đồ vùng ngập từ tất cả các nhà máy, và chia sẻ dữ liệu về xã, phường - nơi trực tiếp ra loa, sơ tán và bảo vệ dân.
Và cuối cùng, UBND tỉnh là cấp điều phối liên ngành, cần ban hành quy chế phối hợp giữa các sở ngành, các nhà máy và cấp xã, với cơ chế giám sát, chế tài rõ ràng nếu không thực hiện hoặc cung cấp thông tin không kịp thời.
Tại cơ sở, xã và phường là tuyến đầu chỉ huy ứng phó, là nơi dân nghe loa, nhận cảnh báo và sơ tán. Vì vậy, mỗi xã, phường cần được cấp các tài liệu: Bản đồ vùng ngập do xả lũ; Bảng tra cứu đơn giản “xả bao nhiêu - ngập bao nhiêu - thời gian nước đến” và Tờ hướng dẫn 5 bước ứng phó khi nhận thông báo xả. Cán bộ trực xã phải được tập huấn để biết cách đọc, hiểu, và hướng dẫn dân. Người dân thì có quyền giám sát, phản ánh, đặt câu hỏi: “Xả bao nhiêu thì nước về xóm tôi?”, “Có ngập không?”, “Có cần đưa trâu bò lên cao không?”, “Bao lâu nữa nước đến?”.
Một thông báo xả lũ chỉ thực sự có giá trị khi nó giúp người dân hành động đúng lúc, đúng cách - chứ không phải một dòng chữ hành chính gửi cho có lệ. Và muốn vậy, không thể thiếu bản đồ vùng ngập, dữ liệu quan trắc kết nối thời gian thực, và sự phối hợp có trách nhiệm từ tỉnh tới xã.
Thiên tai không tránh được, nhưng thiệt hại là điều hoàn toàn có thể giảm nếu cảnh báo đủ sớm, đủ rõ, và đúng người.