Theo dấu chân Phật hoàng: Kỳ 3 - Côn Sơn-Kiếp Bạc, nơi giao thoa nhân nghĩa, kỷ cương
Yên Tử - nơi khởi nguồn, qua Vĩnh Nghiêm - nơi bồi đắp tri thức, mạch Trúc Lâm xuôi về Côn Sơn-Kiếp Bạc. Ở đây, tiếng suối rì rầm của Côn Sơn gặp tiếng trống trận vọng về từ Kiếp Bạc. Bóng thông cổ giao thoa với cờ lệnh bát quái trên bờ Lục Đầu. Một bên là cõi thiền và nhân nghĩa in đậm dấu Huyền Quang, Nguyễn Trãi và một bên là hào khí và kỷ cương của Đức Thánh Trần.
Côn Sơn, mạch thiền và nhân nghĩa
Sáng sớm, sương còn đọng trên những ngọn thông. Con đường đá dẫn vào chùa Côn Sơn dốc nhẹ, hai bên là những trảng cỏ mịn, rải rác đá tảng sáng màu như những đốm ký ức phơi ra dưới nắng non. Tiếng suối Côn Sơn rì rầm, lẩn khuất dưới những phiến đá như bàn tay ai đó khẽ gõ nhịp.

Mái đình trầm Kiếp Bạc “đại bản doanh” linh thiêng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Đón tôi ngay cổng chính vào chùa, cư sĩ Lâm Thanh Tư (một người con của vùng đất Chí Linh đã nhiều năm nghiên cứu về lịch sử, văn hóa của Côn Sơn - Kiếp Bạc) nở một nụ cười như chào đón người thân. Với anh, được sinh ra và lớn lên ở vùng đất này chính là một vinh dự và niềm tự hào vì càng nghiên cứu, càng tìm hiểu, anh càng thấy mình quá may mắn. Vừa dẫn đường và qua lời kể chuyện, anh đưa tôi bước vào một không gian lịch sử hàng trăm năm.

Ở Côn Sơn thông đứng chụm đầu, những thân cây rướn lên như những dòng kinh thẳng
“Côn Sơn trước hết là không gian của thiền và chữ. Từ dấu chân Đệ tam Tổ Huyền Quang, đến bóng người Nguyễn Trãi, bậc đại trí, đại nhân trung hưng quốc gia. Nơi đây được hun đúc thành một “thư phòng mở” giữa núi rừng. Sách vở ở Côn Sơn không chất trên kệ, mà dựng thành đá tảng, treo vào tiếng chuông. Người xưa đến đây để soi lòng trước suối, để tập nói những lời tốt đẹp trước khi đem lời đi gỡ rối cho thiên hạ”, cư sĩ Tư chậm rãi trò chuyện.
Vừa đi vừa bàn luận, cư si Tư dẫn tôi đến gò thông nơi có Bàn Cờ Tiên. Ánh nắng chéo qua tán lá, từng tia nắng như kẻ ô trên mặt đá vuông tạo nên một bàn cờ lớn của thời gian.
“Sách vở ở Côn Sơn không chất trên kệ, mà dựng thành đá tảng, treo vào tiếng chuông. Người xưa đến đây để soi lòng trước suối, để tập nói những lời tốt đẹp trước khi đem lời đi gỡ rối cho thiên hạ”.
Cư sĩ Lâm Thanh Tư
“Đây là nơi được ví như điểm gặp nhau của Đệ tam tổ Huyền Quang, thi sĩ của từ bi và bậc đại trí Nguyễn Trãi, nhà chính trị của nhân nghĩa. Một người tu, một người trị, cả hai cùng “đặt quân” theo cùng một lẽ, cái thiện phải có kỷ luật, cái đẹp phải có nền. Chỉ có nền, cái thiện mới bền. Chỉ có kỷ luật, cái đẹp mới sâu” cư sĩ Tư giảng giải.

Sách vở ở Côn Sơn không chất trên kệ, mà dựng thành đá tảng, treo vào tiếng chuông
Trên cao nhìn về Kỳ Lân Sơn tự, thông đứng chụm đầu, những thân cây rướn lên như những dòng kinh thẳng. Gió quệt qua mái ngói cũ ngân ra âm thanh mỏng như tơ. Tấm bia đá xưa khắc công đức, chữ đã mòn, nhưng cái “thần” vẫn hiện. Những cụ già đi chậm trên bậc đá, vừa đi vừa lần tràng hạt. Một bà mẹ trẻ giữ tay con không cho viết vẽ lên đá. Tôi nghĩ, đạo ở Côn Sơn không ẩn trong nội điện, mà ở chính cử chỉ ấy. Nhắc một đứa trẻ dừng tay trước đá cổ, một bài học nhập môn của Thiền phái Trúc Lâm.
Côn Sơn cũng là không gian của những câu thơ nhuần thắm. Người đời nhắc đến bài ca nước suối rì rầm, tiếng thông reo như khúc nhạc xưa. Nhưng nếu chỉ dừng ở lãng mạn, ta sẽ bỏ lỡ lớp sâu. Ở đây, thơ và thiền dẫn người đến nhân nghĩa. Từ Côn Sơn, Nguyễn Trãi đi ra làm việc lớn, rồi lại trở về để soi chiếu đúng - sai, trắng - đen trong lòng mình.
Cư sĩ Tư cũng kể tôi nghe tập tục xưa: “Làm quan lừng lẫy một thời rồi cũng đến lúc về nghỉ, nhiều người cũng nên lên núi này rửa tay trong suối. Không phải vì tay bẩn, mà vì lòng dễ vẩn đục”. Lời ấy nghe tưởng đùa, nhưng ở Côn Sơn, nó thành nghi thức nhỏ, kẻ cầm bút, người cầm quyền, trước hết phải biết ngồi yên nghe suối. Thiền ở đây không trốn đời, thiền là cách sống giữa đời cho đúng mực.
Kiếp Bạc, hào khí và kỷ cương
Rời Côn Sơn, con đường lượn qua khu ruộng, xóm nhà thấp. Lục Đầu Giang mở ra như một biển sông giao hòa sáu dòng nước. Bến Kiếp Bạc đón tôi bằng những phướn ngũ sắc, mái đình trầm, cột lim thâm nâu vết tay. Đây là “đại bản doanh” linh thiêng của ký ức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, vị tướng đưa dân tộc đi qua ba lần bão táp Nguyên Mông, dựng nên kỷ cương quốc gia bằng kỷ luật quân dân.
Ở đền thờ chính, hương trầm như một sợi dây thơm kết nối kẻ đến sau với người đi trước. Bức đại tự hoành phi, câu đối khảm trai, gươm giáo, trống đồng, mỗi vật đều có trọng lượng riêng. Không khí ở Kiếp Bạc khiến người ta hiểu vì sao bản hịch xưa đòi hỏi mỗi nhà, mỗi người đều phải tự gánh phần trách nhiệm. Hào khí không chỉ là khí thế nhất thời, nó là kỷ luật chung, từ chuyện lớn đến chuyện bé, từ lúc trận mạc đến lúc canh nông.
Tôi gặp một đội tình nguyện viên toàn người trẻ. Ngày thường, các bạn đến đây trồng hoa, tưới cây và dọn dẹp vệ sinh. Còn những lúc lễ hội, các bạn sẽ phối hợp với lực lượng chức năng và nhà chùa phân luồng, chỉ dẫn cho du khách. “Bọn em gọi cách làm này là tình nguyện văn minh”, một bạn nói. Văn minh không phải để giữ hình ảnh cho đẹp mà văn minh là để giữ không gian thiêng khỏi bị phá bởi tiếng ồn, rác thải, chen lấn.
Nơi giao thoa mạch nguồn
Đứng trên đồi thông nhìn xuống, tôi bỗng thấy Côn Sơn-Kiếp Bạc như hai bàn tay. Một tay nâng trí, một tay nâng khí. Trí mà không khí, sẽ héo. Khí mà không trí, sẽ nóng. Trúc Lâm đưa đến Côn Sơn một đường tu nhân nghĩa. Lịch sử đưa đến Kiếp Bạc một đường tu kỷ cương. Hai con đường gặp nhau ở con người Việt Nam, người biết yêu nước bằng lòng thương người, biết giữ nước bằng cách giữ kỷ luật.
Khi Nguyễn Trãi viết bản Bình Ngô, tuyên ngôn lớn của dân tộc. Ông từng nói: “dùng đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đó không chỉ là mưu lược thời chiến, đó là đạo trị nước thời bình, khơi dậy điều tử tế trong lòng dân, xây kỷ cương trên nền tảng đồng thuận, chứ không chỉ bằng cưỡng bức. Nếu Trúc Lâm dạy “cư trần lạc đạo”, thì Ức Trai dạy “cư quốc lạc dân”, sống giữa quốc gia mà làm cho dân yên.
Trong câu chuyện với một bác quản tự, tôi hỏi: “Theo bác, điều gì là quý nhất ở Côn Sơn-Kiếp Bạc?”. Bác nói chậm: “Là sự gặp nhau. Ở đây, cái riêng không tách cái chung. Người tu không quên nước, người lính không quên đạo. Người dân không quên nhau”. Lời giản dị, mà như một phiên bản đời thường của học thuyết xưa: “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” không phải một chuỗi xa vời.
Từ Côn Sơn-Kiếp Bạc, con đường di sản sẽ đưa ta lên chùa Thanh Mai, rừng phong và dấu chân Nhị Tổ. Ở đó, màu lá chuyển theo mùa sẽ kể tiếp câu chuyện kỷ luật của Trúc Lâm, một kỷ luật không cứng, nhưng bền như mạch đá. Trước khi đi, tôi cúi tay múc một vốc nước suối Côn Sơn rửa mặt. Nước róc qua kẽ tay, mang theo mùi đá ẩm và bóng thông, nước mát lạnh và lòng rất nhẹ.