Tháo gỡ rào cản, mở đường cho doanh nghiệp Việt vươn tầm quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam đã và đang khẳng định vị thế thông qua các hoạt động đầu tư ra nước ngoài, với quy mô và tốc độ tăng trưởng đáng ghi nhận. Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho biết, tính đến nay, Việt Nam có khoảng 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đạt hơn 23 tỷ USD.

Thực trạng và thành tựu đầu tư ra nước ngoài

Đặc biệt, trong 7 tháng đầu năm 2025, các doanh nghiệp Việt Nam đã triển khai 105 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư, với tổng vốn 398,9 triệu USD, gấp 3,2 lần cùng kỳ năm 2024. Tổng vốn đầu tư cấp mới và điều chỉnh trong 7 tháng đầu năm 2025 đạt 528,5 triệu USD, tăng 3,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đã trải rộng trên 18/21 ngành kinh tế, trong đó khai khoáng dẫn đầu với 7,1 tỷ USD, chiếm 30,9% tổng vốn lũy kế. Nông, lâm nghiệp, thủy sản đứng thứ hai với 3,4 tỷ USD, chiếm 14,8%, tiếp theo là thông tin - truyền thông với gần 2,87 tỷ USD, chiếm 12,5%. Trong năm 2024, các ngành hoạt động chuyên môn, khoa học - công nghệ chiếm 30,2%, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 21%, và sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chiếm 14,2%. Trong 7 tháng đầu năm 2025, các lĩnh vực này tiếp tục giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là sản xuất và phân phối năng lượng.

Về địa bàn đầu tư, các dự án của Việt Nam đã hiện diện tại 26 quốc gia và vùng lãnh thổ. Lào là điểm đến hàng đầu với gần 5,8 tỷ USD, chiếm 25,3% tổng vốn lũy kế, tiếp theo là Campuchia với hơn 2,94 tỷ USD, chiếm 12,8%, và Venezuela với gần 1,83 tỷ USD, chiếm 8%. Các tập đoàn lớn như Viettel, FPT, Vinamilk và TH đã trở thành những lá cờ đầu, không chỉ mở rộng thị trường mà còn nâng cao hình ảnh Việt Nam, từ một nền kinh tế “công xưởng” sang một trung tâm đổi mới sáng tạo và quản trị hiện đại.

Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách cải cách thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài

Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách cải cách thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài

Hỗ trợ và thách thức trong hành trình vươn ra biển lớn

Để hỗ trợ làn sóng đầu tư ra nước ngoài, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách cải cách thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Bộ Tài chính đang đề xuất bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, cũng như thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Thay vào đó, nhà đầu tư chỉ cần đăng ký với Ngân hàng Nhà nước về việc chuyển tiền ra nước ngoài. Động thái này nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời đảm bảo tính xác thực của hoạt động đầu tư khi nhà đầu tư đã có giấy phép hoặc hợp đồng đầu tư từ nước sở tại. Ngoài ra, theo Công điện 127/CĐ-TTg ngày 4/8/2025 và Nghị quyết 66/NQ-CP ngày 26/3/2025, Bộ Công Thương yêu cầu rà soát và cắt giảm tối thiểu 30% điều kiện kinh doanh, 30% thời gian và 30% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính trong năm 2025, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư ra nước ngoài.

Theo các chuyên gia kinh tế, đầu tư ra nước ngoài mang lại nhiều lợi ích chiến lược. Hoạt động này giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tránh phụ thuộc quá lớn vào thị trường nội địa, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng trong nước dễ bị tác động bởi suy thoái kinh tế. Các dự án đầu tư ra nước ngoài tạo cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản trị xuyên biên giới và mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu. Lợi nhuận và nguồn thu ngoại tệ từ các dự án thành công giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh khi quay lại thị trường nội địa. Hơn nữa, đầu tư ra nước ngoài góp phần xây dựng một nền kinh tế tự chủ, ít bị tác động bởi biến động địa chính trị, đồng thời nâng tầm thương hiệu quốc gia thông qua các thương vụ M&A và dự án công nghệ, dịch vụ tại các thị trường phát triển.

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Quy mô vốn đầu tư ra nước ngoài, dù tăng trưởng, vẫn còn nhỏ so với dòng vốn FDI vào Việt Nam, chỉ đạt 23 tỷ USD so với hơn 517,14 tỷ USD vốn FDI lũy kế đến tháng 7/2025. Các dự án chủ yếu tập trung vào khai khoáng và nông nghiệp, vốn chịu nhiều rủi ro từ biến động giá cả hàng hóa, môi trường và chính sách của nước sở tại. Các lĩnh vực công nghệ cao, chế biến chế tạo giá trị gia tăng cao hoặc nghiên cứu và phát triển còn rất hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài là doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nguồn vốn mỏng, thiếu kinh nghiệm quản trị xuyên biên giới, hiểu biết pháp lý quốc tế và thông tin thị trường. Khung pháp lý hiện hành, dù đã cải thiện, vẫn chưa hoàn chỉnh. Doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuân thủ các quy định về hình thức đầu tư, chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước theo Luật Đầu tư 2020. Thiếu các công cụ hỗ trợ như quỹ đầu tư, bảo hiểm rủi ro chính trị, cơ chế thúc đẩy M&A, hoặc hỗ trợ pháp lý và thông tin thị trường cũng làm tăng chi phí và giảm động lực đầu tư.

Khuyến nghị một số giải pháp để khắc phục những hạn chế này, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam cần chuyển dịch từ mô hình đầu tư “vốn lớn - tài nguyên” sang mô hình “giá trị cao”, tập trung vào công nghệ, nghiên cứu và phát triển, chuỗi cung ứng toàn cầu và trung tâm dịch vụ. Khung pháp lý cần được hoàn thiện thông qua thủ tục một cửa cho đầu tư ra nước ngoài, cung cấp ưu đãi thuế cho thu nhập từ hoạt động quốc tế hợp pháp, và thiết lập quỹ hỗ trợ hoặc bảo hiểm rủi ro.

Việc ký kết thêm các hiệp định thương mại tự do sẽ giúp giảm rủi ro pháp lý và khuyến khích đầu tư vào các nền kinh tế công nghệ cao. Đồng thời, cần xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về quản trị xuyên biên giới và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế. Chính phủ nên hỗ trợ một số tập đoàn Việt Nam trở thành nhà đầu tư toàn cầu trong các ngành then chốt như năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ thông tin, logistics và sản xuất giá trị gia tăng cao.

Quốc Tuấn

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/thao-go-rao-can-mo-duong-cho-doanh-nghiep-viet-vuon-tam-quoc-te-169025.html