Tập đoàn tài chính: Cần giám sát chặt để ngăn rủi ro sở hữu chéo
Tập đoàn tài chính với hệ sinh thái lớn và nguồn lực tập trung có thể khó kiểm soát nếu thiếu minh bạch.
Tỷ trọng lớn
Chia sẻ tại Hội thảo “Xây dựng tập đoàn tài chính phát triển bền vững ở Việt Nam” do Tạp chí điện tử VietTimes tổ chức, ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, nhấn mạnh vai trò của các tập đoàn tài chính tại Việt Nam.
Theo ông Hòe, tuy chưa có khái niệm chính thức thống nhất, mô hình chung của một tập đoàn tài chính bao gồm công ty mẹ và một hoặc nhiều công ty con. Định chế tài chính có thể đóng vai trò công ty mẹ hoặc công ty con trong tập đoàn.
Trong mô hình này, các công ty con tận dụng được lợi thế nguồn lực, uy tín, thương hiệu của công ty mẹ. Còn công ty mẹ tận dụng từ công ty con về gia tăng doanh thu; dịch vụ trọn gói; tăng năng lực cạnh tranh.
Ông Hòe dẫn thống kê tài sản vốn của 11 tập đoàn tài chính lớn của Việt Nam cho thấy, có 10 tập đoàn tài chính do ngân hàng thương mại là công ty mẹ. Một tập đoàn tài chính do công ty bảo hiểm là công ty mẹ.
Chỉ 11 tập đoàn tài chính này đã có tổng tài sản gần 14 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 67% toàn hệ thống tập đoàn tài chính. Dư nợ nhóm này đạt 9,9 triệu tỷ đồng chiếm 67,3% tổng dư nợ tín dụng.

Ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, dẫn chứng 11 tập đoàn tài chính lớn tại Việt Nam
Trong đó, bốn ngân hàng thương mại nhà nước như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank đều có ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính. Tổng tài sản của mỗi tập đoàn tài chính này đều trên dưới 2 triệu tỷ đồng.
Mô hình tập đoàn tài chính nhà nước chỉ thuần về hoạt động dịch vụ tài chính, không được phép nắm giữ chi phối doanh nghiệp sản xuất nên tính khách quan, kiểm soát rủi ro tài chính thuận lợi hơn nhiều so tập đoàn tài chính tư nhân.
Với tập đoàn tài chính tư nhân, đa phần đều do một ngân hàng thương mại cổ phần đứng đầu, có công ty chứng khoán và có công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ đầu tư hoặc liên kết với một công ty bảo hiểm nước ngoài.
Trong tập đoàn tài chính tư nhân còn có nhiều công ty phi tài chính hoạt động rất đa dạng.
“Hệ sinh thái của tập đoàn tài chính tư nhân có cơ cấu phức tạp hơn rất nhiều với nhiều công ty con hoạt động phi tài chính, gồm cả bất động sản”, ông Hòe cho biết.
Vị chuyên gia kinh tế khẳng định, mô hình tập đoàn tài chính không xấu, mà là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Tập đoàn tài chính có nhiều mặt tích cực như tạo dựng thương hiệu tập đoàn cho phát triển sản phẩm, một hệ sinh thái tích cực để mở rộng thị trường, tập trung nguồn lực tạo lợi thế cạnh tranh với đối thủ.
Tuy nhiên, hạn chế là vẫn sở hữu chéo chằng chịt. Trong điều kiện không minh bạch, hoạt động của các tổ chức này vô cùng khó kiểm soát. Hệ quả là rủi ro tuồn vốn cho công ty sân sau dễ dãi, tạo rủi ro lan truyền trong hệ thống, ưu đãi nội bộ nhằm lách luật.
Dẫn báo cáo của Ngân hàng Nhà nước tại kỳ họp 3, Quốc hội XV vừa qua, ông Hòe cho biết một số tổ chức tín dụng có số cổ đông, tỷ lệ sở hữu tập trung cao. Điều này tạo ra nhiều khó khăn về thông tin trong việc kiểm soát tình trạng sở hữu chéo.
Cơ chế giám sát đủ mạnh
Hiện tại, các quốc gia tại châu Âu, Nhật Bản, Thái Lan hay Hàn Quốc đều đã chế định thành quy định của pháp luật đối với tập đoàn tài chính, bóc tách lĩnh vực hoạt động tài chính và phi tài chính để có chế định giám sát chặt chẽ mô hình tập đoàn tài chính.
Trong khi đó, Việt Nam chưa thừa nhận tập đoàn kinh tế hay tập đoàn tài chính là một pháp nhân nên việc quản lý vẫn tương đối khó khăn.
Ông Hòe cho rằng, về dài hạn cần có lộ trình nâng tầm các quy định cho rõ hơn như vốn tối thiểu và thanh khoản; xây dựng các chính sách về vốn tối thiểu, quản lý vốn và thanh khoản cao hơn so với hoạt động đơn thuần của một ngân hàng thương mại…
Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm quốc tế của Thái Lan, Hàn Quốc nhằm từng bước chế định cơ chế đủ mạnh giám sát hợp nhất tập đoàn tài chính.
Ông Hòe nêu đề xuất về giải pháp quản lý các tập đoàn tài chính lành mạnh với hai điểm chính.
Đầu tiên, quan trọng nhất là câu chuyện minh bạch và thực thi công tác quản lý, giám sát đầy đủ, khách quan trung thực và phải nâng các chuẩn mực tài chính. Vấn đề thứ hai là cơ chế giám sát hợp nhất.
“Nếu chỉ có một ngân hàng thì theo cơ chế, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước giám sát. Nếu là công ty bảo hiểm thì Bộ Tài chính giám sát, các lĩnh vực khác thì có thêm Ủy ban Chứng khoán… Tuy nhiên, cơ chế lại thiếu một người đứng đầu giám sát chung.
Vì thế, theo tôi, nếu như đứng đầu tập đoàn tài chính là ngân hàng thì Ngân hàng Nhà nước giám sát, chứng khoán đứng đầu thì Bộ Tài chính phải đứng đầu”, ông Hòe nêu quan điểm.
Và nhìn về dài hạn, nên cụ thể hơn trong luật về thanh tra giám sát, Luật Kiểm toán, Luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi gồm các điều khoản cụ thể về quản lý giám sát tập đoàn tài chính.
Một nghị định mới quy định về vấn đề này cần được xây dựng, đưa ra những quy định mang tính chất nền móng về những nội dung quy định về tổ chức, trách nhiệm của ban quản trị đứng đầu tập đoàn tài chính, điều lệ của tập đoàn tài chính.
Mục tiêu hướng tới các tập đoàn tài chính có một cấu trúc tổ chức và quản lý minh bạch, nhất quán với chiến lược tổng thể.
"Trong đó, các chủ sở hữu lớn, các thành viên ban quản trị, quản lý cấp cao và những người nắm giữ vị trí quan trọng trong một tập đoàn tài chính phải đáp ứng những điều kiện nhất định", ông Hòe chia sẻ.














