Tạo cơ chế đồng bộ, thống nhất về phòng thủ dân sự

Thời gian qua, công tác phòng thủ dân sự luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo; tổ chức các hoạt động ứng phó sự cố, thảm họa đạt nhiều kết quả, đáp ứng một phần yêu cầu công tác phòng thủ dân sự và phòng thủ quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động phòng thủ dân sự vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, vướng mắc và để bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, cần thiết phải xây dựng Luật Phòng thủ dân sự. Đó là chia sẻ của Trung tướng DOÃN THÁI ĐỨC, Cục trưởng Cục Cứu hộ, cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu (Bộ Quốc phòng) với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân.

Bảo đảm tính thống nhất và khả thi

- Việc xây dựng Luật Phòng thủ dân sự trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng thủ dân sự. Tuy nhiên, có một thực tế là những quy định về phòng thủ dân sự nằm rải rác ở rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Vậy phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật được xác định như thế nào để bảo đảm được tính thống nhất và khả thi, thưa ông?

Trung tướng Doãn Thái Đức

Trung tướng Doãn Thái Đức

- Dự thảo Luật Phòng thủ dân sự đã có sự phân định rõ về phạm vi điều chỉnh, bảo đảm không chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật hiện hành, cụ thể:

Thứ nhất, dự thảo Luật chỉ quy định về nguyên tắc, hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục đối với sự cố, thảm họa mà việc ứng phó, khắc phục vượt quá khả năng của lực lượng chuyên trách thuộc các bộ, ngành và địa phương.

Thứ hai, dự thảo Luật chỉ quy định những nội dung chung liên quan đến hoạt động phòng thủ dân sự và một số vấn đề mới mà các luật khác chưa quy định, như đánh giá nguy cơ xảy ra sự cố, thảm họa để xây dựng chiến lược, kế hoạch phòng thủ dân sự; căn cứ xác định cấp độ phòng thủ dân sự; biện pháp phòng thủ dân sự tương ứng với mỗi cấp độ mà chính quyền địa phương được phép áp dụng; hoạt động phòng thủ dân sự trên các vùng biển Việt Nam không thuộc phạm vi quản lý của UBND cấp tỉnh; hoạt động khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa. Biện pháp phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp, biện pháp phòng thủ dân sự được áp dụng trong tình trạng chiến tranh.

Thứ ba, nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30.8.2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo, dự thảo Luật quy định hoạt động phòng thủ dân sự phải được thực hiện từ sớm, từ xa, phòng là chính, từ khi chưa xảy ra sự cố, thảm họa. Đây là các quy định có tính nguyên tắc chung cho các loại hình sự cố, thảm họa.

Thứ tư, tại Điều 5, dự thảo Luật đã quy định về áp dụng Luật Phòng thủ dân sự và các luật liên quan phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo trong hệ thống pháp luật. Cụ thể, hoạt động phòng, chống, khắc phục hậu quả của các sự cố, thảm họa được quy định trong luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Phòng thủ dân sự có hiệu lực thi hành nhưng không trái với nguyên tắc hoạt động phòng thủ dân sự quy định tại Điều 3 của Luật này thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật Phòng thủ dân sự có hiệu lực thi hành, quy định đặc thù về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố, thảm họa khác với quy định của Luật này thì phải tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Luật này và phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện theo quy định của Luật này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.

Như vậy, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Phòng thủ dân sự không chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật hiện hành; bảo đảm tính liên kết chặt chẽ với các luật khác liên quan đến phòng thủ dân sự, tạo thành cơ chế phối hợp đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

- Để xác định cấp độ phòng thủ dân sự, cần căn cứ vào những yếu tố nào, tiêu chí nào, thưa ông?

- Việc xác định cấp độ phòng thủ dân sự làm cơ sở phân công, phân cấp, trách nhiệm của chính quyền các cấp huyện, tỉnh, Trung ương nhằm phát huy tính chủ động trong việc phòng ngừa, ứng phó, khắc phục với sự cố, thảm họa. Dự thảo Luật quy định, các cấp chính quyền được áp dụng các biện pháp để ứng phó, khắc phục hậu quả các loại hình sự cố, thảm họa trong phạm vi quản lý khi mức độ thiệt hại vượt quá khả năng, điều kiện ứng phó, khắc phục hậu quả của lực lượng chuyên trách thuộc các bộ, ngành và địa phương.

Tại khoản 3 Điều 6, dự thảo Luật đã quy định các căn cứ xác định về cấp độ phòng thủ dân sự. Đó là phạm vi ảnh hưởng, khả năng lan rộng và hậu quả có thể xảy ra của sự cố, thảm họa; vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm tình hình quốc phòng, an ninh của địa bàn chịu ảnh hưởng của sự cố, thảm họa; diễn biến, mức độ gây thiệt hại và thiệt hại do sự cố, thảm họa gây ra; khả năng ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa của chính quyền địa phương và lực lượng phòng thủ dân sự.

Minh bạch và hiệu quả trong hoạt động

- Trong quá trình thảo luận về dự án Luật, một trong những nội dung được rất nhiều ĐBQH quan tâm và cho ý kiến là về cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự. Cũng có ý kiến băn khoăn về việc hợp nhất các Ban Chỉ đạo như dự án Luật. Ông có thể chia sẻ rõ thêm về nội dung này?

- Để giúp cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân khi có sự cố, thảm họa, dịch bệnh, môi trường do thiên nhiên, con người hoặc chiến tranh gây ra; Thủ tướng Chính phủ đã thành lập nhiều ban, ủy ban phối hợp liên ngành làm nhiệm vụ này.

Hiện nay, trong lĩnh vực phòng thủ dân sự ở Trung ương có 3 tổ chức gồm Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia; Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai; Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Trong khi đó, ở cấp bộ, ngành, địa phương chỉ có 1 tổ chức đó là Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn đồng thời là Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự.

Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai làm nhiệm vụ điều phối liên ngành giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc tổ chức chỉ đạo, điều hành công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai trên phạm vi cả nước. Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn là cơ quan phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tổ chức phối hợp thực hiện công tác trong phạm vi cả nước và hợp tác khu vực, quốc tế; trực tiếp chỉ đạo Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị chuyên trách, kiêm nhiệm thực hiện công tác ứng phó, sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn. Tổng cộng nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn vẫn chưa thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ trong lĩnh vực phòng thủ dân sự.

Trong khi đó, Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia do Thủ tướng Chính phủ thành lập, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành công tác phòng thủ dân sự trên phạm vi cả nước. Ban chỉ đạo có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ để bảo đảm phòng, chống, khắc phục hậu quả của chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân; hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, ổn định đời sống Nhân dân, đưa hoạt động kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trở lại bình thường.

Thành viên của 3 tổ chức này đều là lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương; có người là thành viên của 2 tổ chức, thậm chí cả 3 tổ chức. Ở bộ, ngành, địa phương 3 tổ chức này là 1 (Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn đồng thời là Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự). Như vậy, 3 tổ chức của Trung ương đều chỉ đạo 1 tổ chức ở bộ, ngành, địa phương. Do đó sẽ gây chồng chéo về công tác chỉ đạo, khó khăn trong tổ chức thực hiện ở bộ, ngành, địa phương.

Vì vậy, việc hợp nhất 3 tổ chức trên là hết sức cần thiết, bảo đảm tinh giản bộ máy chỉ đạo, chỉ huy hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với tình hình thực tiễn theo tinh thần Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24.11.2017 của Quốc hội.

- Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Thúy thực hiện

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/phap-luat-va-doi-song/tao-co-che-dong-bo-thong-nhat-ve-phong-thu-dan-su-i322116/