Sửa Luật Di sản văn hóa: Không kinh doanh bảo vật quốc gia
Theo ông Nguyễn Đắc Vinh, dự thảo Luật Di sản văn hóa đã quy định cụ thể theo hướng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, không được chuyển quyền sở hữu, kinh doanh.
"Di sản địa chất" không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
Tiếp tục chương trình Phiên họp chuyên đề pháp luật, chiều 14/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi).
Trình bày một số vấn đề lớn trong tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý gồm 9 chương với 101 điều, giảm 1 điều so với dự thảo trình tại Kỳ họp thứ 7.
Về phạm vi điều chỉnh, ông Nguyễn Đắc Vinh cho biết, khác với di sản văn hóa vật thể mang tính đặc trưng của vật chất và di sản văn hóa phi vật thể mang thuộc tính đặc trưng của tinh thần không thể nhìn thấy được, di sản tư liệu mang thuộc tính của giá trị thông tin, thông điệp thể hiện trên hiện vật mang thông tin được chủ thể tạo ra có chủ ý, có thể tiếp cận, đọc và hiểu được.
Việc tách di sản tư liệu như dự thảo Luật sẽ quy định cụ thể, đồng bộ hơn, nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của loại hình di sản này.
Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục và cơ quan chủ trì soạn thảo đã thảo luận và thống nhất: "Di sản địa chất" được điều chỉnh tại Luật Bảo vệ môi trường và Luật Địa chất khoáng sản (sửa đổi), không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Di sản văn hóa.
Trường hợp khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù được công nhận là "danh lam thắng cảnh" theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 22 dự thảo Luật thì sẽ được điều chỉnh bởi dự thảo Luật này.
Quản lý di vật, bảo vật quốc gia
Về sở hữu di sản văn hóa, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng quy định cụ thể việc xác lập di sản văn hóa theo từng loại hình sở hữu toàn dân, sở hữu chung, sở hữu riêng.
Việc xác định, đăng ký và giải quyết tranh chấp về sở hữu di sản văn hóa được thực hiện theo quy định của Luật này, pháp luật về dân sự, đất đai, quản lý, sử dụng tài sản công, sở hữu trí tuệ, hình sự và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Liên quan tới chính sách của Nhà nước về di sản văn hóa, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động; biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
Các điều kiện đảm bảo hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó có nguồn lực tài chính, xã hội hóa và các điều kiện khác; nguồn nhân lực tham gia quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; chế độ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực.
Đối với việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể, kiểm kê di tích, kiểm kê di sản tư liệu, Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục và Cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất bỏ các quy định về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm kê định kỳ 5 năm một lần và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tổng kiểm kê trên toàn quốc 10 năm một lần; danh mục kiểm kê phải được kiểm kê, rà soát, cập nhật hằng năm.
Đối với quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và xử lý di vật, cổ vật được phát hiện, giao nộp, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục cho biết, dự thảo Luật đã quy định cụ thể theo hướng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân không được chuyển quyền sở hữu, kinh doanh, mua bán, trao đổi, tặng cho;
Di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được kinh doanh, mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước; bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở trong nước.
Trường hợp mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng thông qua đấu giá thì thực hiện theo pháp luật về đấu giá tài sản.