Sửa đổi tổng thể Luật Đầu tư: Khơi thông nguồn lực cho phát triển
Luật Đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, hành lang pháp lý thông thoáng
Có nên duy trì thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư?
Trong rất nhiều vướng mắc nảy sinh từ Luật Đầu tư "lỗi thời", thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư (CTĐT) đang là một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của DN tư nhân. Thực tế cho thấy quy trình này có thể làm tăng thời gian và chi phí chuẩn bị đầu tư thêm 2 - 5 năm, khiến nhiều DN mất cơ hội kinh doanh vì phải chờ đợi phê duyệt kéo dài, từ khâu trình - thẩm định - ra quyết định chấp thuận CTĐT... Do đó, nhiều DN kiến nghị nếu bãi bỏ quy định trên, có thể cắt giảm được 30 - 50% về thời gian xử lý thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ pháp luật, điều kiện kinh doanh tùy theo loại dự án.

Hoạt động sản xuất tại Khu công nghiệp Phú Nghĩa, Hà Nội. Ảnh: Phạm Hùng
Cơ chế chấp thuận CTĐT và đăng ký đầu tư được ví như một “đặc sản” pháp lý của Việt Nam, chỉ còn thấy ở Lào và Myanmar, trong khi Trung Quốc vốn có truyền thống quản lý chặt, cũng đã cải cách, bãi bỏ để tiệm cận thông lệ quốc tế. Dù vậy, một số ý kiến vẫn cho rằng, cần tiếp tục giữ thủ tục chấp thuận CTĐT.
Chủ tịch Hiệp hội Các nhà thầu xây dựng Việt Nam Nguyễn Quốc Hiệp cho rằng, CTĐT là cơ sở để xác lập dự án. Nếu bỏ đi, nhất là với những dự án cần giải phóng mặt bằng, sẽ phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Nếu không có quyết định chấp thuận CTĐT, nhà đầu tư sẽ không có cơ sở pháp lý để đàm phán với người dân. Chính vì thế, cần giữ thủ tục này nhưng phải làm rõ nội hàm, rút ngắn thời gian xử lý. Cần lược bỏ các quy định không cần thiết, đồng thời quy định rõ thời gian các đơn vị phải trả lời hoặc không trả lời sau thời gian quy định là đương nhiên đồng ý.
Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) thu hẹp diện dự án phải thực hiện thủ tục xin chấp thuận CTĐT. Thủ tục chấp thuận CTĐT và cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư chỉ áp dụng đối với các dự án có tác động lớn về môi trường, quốc phòng an ninh, sử dụng tài nguyên như đất, rừng, biển, khoáng sản, hoặc các dự án quy mô lớn trong lĩnh vực hạ tầng cảng biển, sân bay… Dù vậy không ít ý kiến cho rằng, các quy định liên quan đến chấp thuận CTĐT vẫn còn chồng chéo, thiếu rõ ràng, cần được cụ thể hóa để bảo đảm tính khả thi.
Chấp thuận CCĐT, vai trò của thủ tục này không chỉ nằm ở việc sàng lọc dự án phù hợp định hướng phát triển hay không, mà còn thể hiện quyền kiểm soát chính sách của Nhà nước đối với các hoạt động sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và phân bổ không gian phát triển. Tuy nhiên, nếu không được thiết kế và vận hành hiệu quả, cơ chế này có thể trở thành điểm nghẽn, cản trở quá trình thu hút đầu tư và làm xói mòn lòng tin của DN, nhà đầu tư đối với môi trường pháp lý trong nước.
TS Nguyễn Đình Cung
Theo TS Nguyễn Đình Cung, cơ chế phân loại dự án trong Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) vẫn rườm rà và mâu thuẫn. Cụ thể, dự thảo chia thành hai nhóm: Không phải chấp thuận CTĐT (nhóm 1) và phải chấp thuận CTĐT (nhóm 2). Trong nhóm 2, lại xuất hiện một “ưu ái đặc biệt” cho một số dự án được phép chỉ đăng ký đầu tư mà không cần chấp thuận. “Cách tiếp cận này thực chất là “chọn cho” - tức Nhà nước cho phép một số dự án được đặc quyền miễn thủ tục, trong khi thế giới đã loại bỏ cơ chế này từ lâu và đi theo hướng “chọn bỏ”, tức chỉ giữ lại rất ít dự án có rủi ro cao mới cần kiểm soát” - TS Nguyễn Đình Cung cho biết.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, phương án cải cách khả dĩ nhất là chỉ giữ lại một danh mục rất hẹp, gồm một số ít dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, còn lại toàn bộ dự án khác không phải chấp thuận cũng không cần đăng ký. Đây là thông lệ quốc tế phổ biến, vừa giảm rủi ro “xin - cho”, vừa giải phóng nguồn lực xã hội cho phát triển.
Luật sư Nguyễn Đức Mạnh, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Bizlink cho rằng, việc bổ sung quy định về các dự án không thuộc diện chấp thuận CTĐT là không thực sự cần thiết. Theo ông, thay vì liệt kê các trường hợp không thuộc diện, Dự thảo chỉ nên tập trung quy định rõ các trường hợp phải chấp thuận CTĐT; còn lại mặc nhiên không cần. “Cách tiếp cận này vừa đơn giản, minh bạch, vừa phù hợp với tinh thần cải cách hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ cho DN” - ông Nguyễn Đức Mạnh phân tích.
Cởi trói điều kiện kinh doanh
Dự thảo cũng tập trung hoàn thiện các quy định về danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện; đối tượng hưởng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt.
Trước đây, danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Luật Đầu tư 2014 gồm 267 ngành, nghề; Luật Đầu tư 2020 giảm xuống còn 230 ngành, nghề. Dự thảo sửa đổi lần này, Bộ Tài chính đề xuất bãi bỏ 16 ngành, nghề trong Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và thu hẹp, xem xét lại phạm vi của năm ngành, nghề; đồng thời quy định rõ điều kiện đầu tư kinh doanh để có cơ sở chuyển một số ngành, nghề sang áp dụng cơ chế hậu kiểm.
Chủ tịch Hội tư vấn Thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc cho rằng, con số ngành, nghề được đề xuất bãi bỏ như vậy vẫn khá khiêm tốn. Hiện có quá nhiều danh mục thuộc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, dẫn đến tình trạng một số lĩnh vực bị áp điều kiện kinh doanh không thật sự cần thiết. Do đó, cần rà soát kỹ lưỡng và loại bỏ những ngành nghề không thực sự cần thiết phải áp điều kiện, qua đó sẽ góp phần giảm thiểu thủ tục, tạo thuận lợi hơn cho DN.
Liên quan đến nội dung này, TS Nguyễn Minh Thảo - Trưởng ban Nghiên cứu Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược cũng cho rằng, thay vì chỉ giảm điều kiện, cần giảm hẳn số ngành nghề. Bởi khi một ngành đã bị đưa vào Danh mục, nguy cơ phát sinh thêm nhiều điều kiện con là rất lớn.
Về cơ chế hậu kiểm, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, tư duy tiền kiểm vẫn hiện hữu trong nhiều chính sách với các biện pháp quản lý “quá mức cần thiết”. Theo các chuyên gia, những lĩnh vực không ảnh hưởng đến lợi ích công cộng nên được “cởi trói” để DN tự do sáng tạo.
Các chuyên gia cho rằng, Bộ Tài chính cần tiếp tục rà soát và đề xuất cắt giảm theo nguyên tắc mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã đưa ra: các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong Dự thảo Luật Đầu tư phải chuyển mạnh sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo đảm việc đặt ra ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, còn lại triệt để cắt giảm.
Với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” là thay đổi căn bản tư duy quản lý. Thể hiện cách tiếp cận mới trong xây dựng thể chế, nhằm rút ngắn thời gian triển khai dự án, tạo thuận lợi cho DN mà vẫn bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước. Thay vì buộc DN phải vượt qua hàng loạt thủ tục mới được gia nhập thị trường, Nhà nước sẽ để họ chủ động khởi sự kinh doanh, đồng thời tập trung nguồn lực vào giám sát quá trình vận hành, xử lý sai phạm khi phát sinh.
Việc xây dựng, ban hành Luật Đầu tư (sửa đổi) lần này không chỉ nhằm cụ thể hóa các nghị quyết lớn của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế tư nhân, mà còn khơi thông nguồn lực, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Với hướng tiếp cận mới, Luật cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đồng thời, mạnh dạn loại bỏ những điều kiện không cần thiết, bất hợp lý, góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh một cách đầy đủ và nhất quán.
TS Nguyễn Minh Thảo