Sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi - Nâng cao vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền
Ngày 14/11, Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) và nghe Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng giải trình, làm rõ một số vấn đề ĐBQH quan tâm. Các ĐBQH cho rằng, trong bối cảnh hội nhập và phát triển của đất nước hiện nay, sửa Luật Bảo hiểm tiền gửi là cần thiết nhằm củng cố nền tảng pháp lý bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và bảo đảm sự ổn định của các tổ chức tín dụng.
Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng NGUYỄN HỮU THÔNG: Đồng bộ luật để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền
Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được Quốc hội thông qua năm 2012, đến nay đã có 12 năm triển khai. Thực tiễn thi hành cho thấy đây là một đạo luật quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của người gửi tiền, ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của hàng triệu cá nhân gửi tiền.

Theo thống kê của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đến 31/12/2024, 100% tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thuộc đối tượng tham gia đều chấp hành đầy đủ quy định của Luật. Hạn mức trả tiền bảo hiểm được điều chỉnh linh hoạt, hiện là 125 triệu đồng và có thể bảo vệ toàn bộ 92,46% số người gửi tiền được bảo hiểm. Số liệu này cho thấy hạn mức BHTG hiện tại là tương đối phù hợp bảo vệ được phần lớn người gửi tiền, nhất là với nhóm gửi tiền nhỏ lẻ, vốn chiếm đa số.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng đặt ra một số vấn đề cần xem xét, đặc biệt là trong bối cảnh Quốc hội đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024. Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, Luật BHTG hiện hành quy định nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc áp dụng biện pháp phục hồi, nhưng tổ chức tín dụng vẫn rơi vào tình trạng phá sản hoặc mất khả năng chi trả. Luật Các tổ chức tín dụng 2024 quy định sau khi phương án phá sản được phê duyệt, tổ chức BHTG phối hợp với TCTD để chi trả cho người gửi tiền.
Những quy định này có thể sẽ khiến việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền không được kịp thời, do phá sản TCTD là trường hợp nhạy cảm, quá trình xử lý thường kéo dài, có thể gây mất niềm tin của người gửi tiền và dễ xảy ra tình trạng rút tiền hàng loạt. Do đó, tôi cho rằng cần sửa đổi, bổ sung Luật BHTG để đẩy sớm thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm vừa đảm bảo tính thận trọng, vừa đảm bảo bảo vệ kịp thời quyền lợi của người gửi tiền.
Việc giao cho Thống đốc quyết định hạn mức là một bước tiến bộ của Dự thảo Luật BHTG (sửa đổi), phù hợp với chủ trương phân cấp, phân quyền của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, theo tôi cũng cần quy định rõ cơ chế điều chỉnh, bảo đảm vừa bảo vệ tốt người gửi tiền, vừa duy trì an toàn hệ thống tài chính. Trong trường hợp chi trả toàn bộ, cần có nguyên tắc, điều kiện cụ thể, tránh tùy nghi áp dụng, đồng thời bảo đảm nguồn lực cho Quỹ BHTG.
ĐBQH tỉnh Đồng Tháp PHẠM VĂN HÒA: Hướng tới áp dụng cơ chế phí linh hoạt, phù hợp thực tiễn

Luật BHTG sau 12 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, đã phát sinh khó khăn, vướng mắc cần giải quyết trong đó vấn đề về phí BHTG. Dự thảo Luật BHTG (sửa đổi) đề xuất: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định mức phí BHTG, việc áp dụng phí BHTG đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp với đặc thù hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam trong từng thời kỳ. Đây được coi là nội dung sửa đổi theo hướng tạo cơ sở pháp lý áp dụng cơ chế phí linh hoạt (đồng hạng hoặc phân biệt) phù hợp với thực tiễn hệ thống TCTD trong từng thời kỳ; đồng thời phân cấp thẩm quyền quyết định về phí BHTG cho Thống đốc NHNN. Trong khi đó, theo quy định tại Luật BHTG hiện hành, Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG; NHNN quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Tôi cho rằng, việc phân cấp thẩm quyền quy định về phí BHTG cho Thống đốc NHNN phù hợp chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền của Đảng, Nhà nước; đồng thời phù hợp với thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của NHNN. NHNN là cơ quan quản lý nhà nước, có chức năng thanh tra, giám sát hệ thống tổ chức tín dụng, NHNN cũng là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động BHTG. Vì vậy, NHNN có đủ cơ sở cần thiết để quy định mức phí BHTG và việc áp dụng phí BHTG đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngoài ra, việc quy định mang tính linh hoạt (Thống đốc NHNN quy định áp dụng phí BHTG đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp với đặc thù hệ thống TCTD trong từng thời kỳ), bởi không có hệ thống phí nào có ưu điểm tuyệt đối. Theo đó, hệ thống phí phân biệt (TCTD có xếp hạng thấp, rủi ro cao phải nộp phí cao hơn; TCTD có xếp hạng cao, hoạt động an toàn nộp phí thấp hơn) có ưu điểm là phù hợp với nguyên tắc thị trường, khuyến khích các TCTD nâng cao năng lực quản trị, hoạt động thận trọng, an toàn để nộp phí BHTG thấp hơn. Tuy nhiên, nhược điểm của hệ thống phí này đó là - các TCTD có xếp hạng thấp, có tình hình tài chính khó khăn hơn lại phải nộp phí nhiều hơn; vì vậy hệ thống phí này có thể làm cho TCTD xếp hạng thấp gặp khó khăn nhiều hơn.
Bên cạnh đó, việc áp dụng ngay phí phân biệt có thể tác động trực tiếp đến hành vi của người gửi tiền; có thể dẫn đến nguy cơ người gửi tiền rút tiền hàng loạt khỏi TCTD có xếp hạng thấp để chuyển sang các TCTD có xếp hạng cao hơn. Vì vậy, việc chuyển sang hệ thống phí phân biệt cần được tính toán thận trọng dựa trên thực tiễn thị trường.
Theo tôi, nội dung đề xuất như dự thảo Luật BHTG (sửa đổi) đảm bảo sự linh hoạt khi áp dụng cơ chế phí đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp trong từng thời kỳ, với đặc thù của hệ thống TCTD tại Việt Nam.
Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH TP. Hải Phòng NGUYỄN THỊ VIỆT NGA: Nên xem xét nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm

Hạn mức trả tiền bảo hiểm quyết định mức độ bảo vệ của hệ thống BHTG đối với người gửi tiền khi xảy ra sự cố tại TCTD. Đây là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG chi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia BHTG, khi phát sinh nghĩa vụ chi trả.
Tại Luật BHTG 2012, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định hạn mức trả tiền bảo hiểm. Tại dự thảo Luật BHTG (sửa đổi), thẩm quyền quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm trong từng thời kỳ được phân cấp cho Thống đốc NHNN. Điều này phù hợp chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền của Đảng, Nhà nước; đồng thời phù hợp với thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của NHNN. Cách tiếp cận này cũng bảo đảm tính linh hoạt, giảm bớt thủ tục trong việc thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm.
Quy định về trường hợp đặc biệt cho phép Thống đốc NHNN quyết định hạn mức chi trả tối đa bằng toàn bộ các khoản tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền là cần thiết. Đây là một công cụ ứng phó khủng hoảng, bảo đảm Nhà nước có thể bảo vệ toàn bộ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền khi xảy ra sự cố nghiêm trọng, qua đó ngăn ngừa nguy cơ rút tiền hàng loạt và duy trì ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng.
Từ khi áp dụng năm 1999 đến nay, hạn mức trả tiền bảo hiểm đã bốn lần điều chỉnh: từ 30 triệu đồng (1999 - 8/2005), 50 triệu đồng (9/2005 - 7/2017), 75 triệu đồng (8/2017 - 11/2021), và hiện là 125 triệu đồng (từ 12/2021 đến nay). Mỗi lần điều chỉnh đều nhằm nâng cao khả năng bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Theo BHTGVN, với hạn mức 125 triệu đồng hiện nay có thể bảo vệ toàn bộ 92,46% số người gửi tiền được bảo hiểm. Đây là bước tiến rõ rệt, song cũng đặt ra câu hỏi: liệu mức hiện tại đã đủ để bảo vệ phần lớn người gửi tiền trong bối cảnh lạm phát, thu nhập và quy mô tiền gửi đều tăng nhanh hay chưa?
Thực tế, mức 125 triệu đồng còn khá thấp so với nhiều quốc gia có hệ thống BHTG phát triển. Ngoài ra, trong bối cảnh lãi suất tiền gửi có xu hướng giảm, người dân có xu hướng gửi kỳ hạn dài và số dư tiền gửi cao hơn, hạn mức thấp có thể khiến tâm lý người gửi tiền bị ảnh hưởng khi có thông tin bất lợi về tổ chức tín dụng. Ngược lại, nếu hạn mức đủ lớn, niềm tin của công chúng với hệ thống ngân hàng sẽ được củng cố, giảm nguy cơ rút tiền hàng loạt, góp phần ổn định thị trường tài chính - ngân hàng.
Vì vậy, tôi cho rằng đã đến lúc nghiên cứu điều chỉnh tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của người gửi tiền, đồng thời phù hợp với xu thế quốc tế và yêu cầu bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Mức tăng dựa trên cơ sở phân tích tác động toàn diện, bảo đảm cân đối giữa khả năng tài chính của tổ chức BHTG, chi phí đóng góp của các TCTD và lợi ích của người gửi tiền.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Đỗ Đức Hồng Hà:Bốn nội dung cốt lõi nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTGViệt Nam

Theo tôi, để nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTGVN trong tình hình mới, có 4 nội dung cốt lõi chúng ta cần quan tâm, cụ thể:
Thứ nhất, về hoạt động kiểm tra trong dự án Luật quy định tại Điều 14, BHTGVN có quyền và nghĩa vụ thực hiện kiểm tra tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo kế hoạch, nội dung do NHNN giao. Tôi nhất trí với quy định này vì 5 lý do sau đây: (1) quy định cụ thể hóa quan điểm nhất quán của Nhà nước ta về tăng cường vai trò của BHTGVN trong hỗ trợ chức năng kiểm tra, giám sát của NHNN; (2) cơ sở thực tiễn, BHTGVN đã được giao thí điểm và có kinh nghiệm từ năm 2019 đến nay, đã kiểm tra 354 quỹ tín dụng nhân dân và chứng minh được năng lực thực tiễn; (3) NHNN tinh gọn bộ máy, giảm từ 63 chi nhánh tỉnh, thành phố xuống còn 15 chi nhánh khu vực đòi hỏi phải huy động thêm nguồn lực từ BHTGVN để hỗ trợ công tác thanh tra và chức năng này theo tôi không trùng lặp với hoạt động thanh tra của NHNN; (4) BHTGVN chỉ thực hiện theo kế hoạch, nội dung do NHNN giao. Với vai trò chủ trì, NHNN sẽ điều phối để bảo đảm không chồng chéo; (5) phù hợp với thông lệ quốc tế, Hiệp hội BHTG quốc tế và kinh nghiệm quốc tế của các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản đều cho thấy tổ chức BHTG cần thiết phải có chức năng kiểm tra để giảm thiểu rủi ro cho Quỹ BHTG, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, khắc phục sai sót từ sớm, từ xa.
Thứ hai, thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm được quy định tại Điều 21 và Điều 36 dự án Luật có bổ sung các thời điểm phát sinh nghĩa vụ chi trả sớm hơn, bao gồm 3 trường hợp: (1) khi phương án phá sản TCTD được phê duyệt hoặc NHNN xác định chi nhánh Ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả; (2) khi NHNN có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của TCTD được kiểm soát đặc biệt có lỗ lũy kế lớn hơn 100% vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất; (3) thuộc trường hợp chi trả để đảm bảo an toàn hệ thống, trật tự an toàn xã hội, cụ thể khi NHNN báo cáo Chính phủ quyết định việc yêu cầu tổ chức BHTG chi trả trong trường hợp TCTD được kiểm soát đặc biệt bị mất hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả theo pháp luật các TCTD.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, tôi cho rằng việc bổ sung trường hợp 2 rất cần thiết, vì thực tế việc chờ phê duyệt phương án phá sản thường kéo dài khiến người gửi tiền chậm nhận được tiền bảo hiểm. Thời điểm chi trả sớm tại trường hợp 2 gắn với 3 điều kiện chặt chẽ, đó là: bị kiểm soát đặc biệt, bị đình chỉ nhận tiền gửi và lỗ lũy kế trên 100% vốn. Khi đó TCTD thực tế đã không thể tiếp tục hoạt động, việc chi trả sớm giúp người gửi tiền nhanh chóng tiếp cận khoản tiền được bảo hiểm, củng cố niềm tin và giúp xử lý dứt điểm TCTD yếu kém.
Thứ ba, về mô hình tổ chức của BHTGVN:
Điều 27 dự thảo luật quy định:
1. Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ.
2. Tổ chức BHTG là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ tài chính, tự bù đắp chi phí.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức BHTG bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc.
4. Tổ chức BHTG có trụ sở chính; chi nhánh; văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác (nếu có).
5. Chính phủ quy định tổ chức, hoạt động, chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng của tổ chức BHTG phù hợp với tính chất hoạt động của tổ chức BHTG.
Quy định kế thừa mô hình hoạt động ổn định từ năm 1999 đến nay, phù hợp với bản chất của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiền đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, mô hình phi lợi nhuận thống nhất với thông lệ quốc tế. Việc quy định khung pháp lý về cơ chế tự chủ, mô hình hoạt động trong luật là phù hợp, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết các vấn đề cụ thể.
Thứ tư, về hoạt động đầu tư của BHTGVN. Điều 29 dự thảo Luật mở rộng danh mục đầu tư cho BHTGVN bên cạnh các hình thức truyền thống như gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước; mua, bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN với TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, dự án Luật cho phép BHTGVN mua bán trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi do NHTM có vốn Nhà nước hoặc NHTMCP có vốn doanh nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ phát hành; gửi tiền tại các NHTM có vốn nhà nước, NHTMCP có vốn doanh nghiệp nhà nước trên 50% vốn điều lệ, đồng thời dự án Luật quy định không đầu tư tại NHTM đang được kiểm soát đặc biệt và giao Thống đốc NHNN quy định quy trình kiểm soát rủi ro. Tôi đồng tình với quy định này vì 4 lý do sau đây: (1) việc đa dạng hóa danh mục đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển BHTG theo Quyết định 1660 của Thủ tướng; (2) đảm bảo an toàn, thận trọng việc loại trừ các TCTD bị kiểm soát đặc biệt và giao NHNN kiểm soát rủi ro đảm bảo nguyên tắc thận trọng; (3) đáp ứng yêu cầu cấp thiết về năng lực tài chính của BHTGVN vì hiện nay tỷ lệ quỹ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm chỉ đạt 1,3% trong khi lãi suất trái phiếu Chính phủ giảm mạnh, làm suy yếu tốc độ tăng trưởng quỹ. Việc đẩy nhanh tốc độ tích lũy quỹ một cách an toàn là yêu cầu cấp bách và rất cần thiết; (4) quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế của Hiệp hội BHTG Quốc tế, các nước như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đều cho thấy chính sách đầu tư cần hài hòa, an toàn, thanh khoản, sinh lời và cho phép gửi tiền tại các tổ chức tài chính lành mạnh.
Ủy viên chuyên trách Ủy ban Dân nguyện và Giám sát CAO MẠNH LINH:Nên “chi trả sớm”để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền

Tôi tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) với những cơ sở chính trị, pháp lý cũng như thực tiễn nêu trong tờ trình. Đồng thời, xin góp ý một số nội dung:
Thứ nhất, liên quan đến Biện pháp xử lý hành vi nộp thiếu, nộp chậm phí BHTG: dự án Luật quy định biện pháp xử lý đối với trường hợp tổ chức tham gia BHTG vi phạm thời hạn nộp phí BHTG nhưng chưa làm rõ trong thời gian tổ chức tham gia BHTG nộp chậm, nộp thiếu phí BHTG thì quyền lợi của người gửi tiền sẽ được giải quyết như thế nào, có được bảo hiểm hay không trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Do đó, đề nghị dự án Luật bổ sung quy định về trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG đối với người gửi tiền khi nộp thiếu, nộp chậm phí BHTG trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Thứ hai, về quyền, nghĩa vụ của tổ chức BHTG quy định tổ chức BHTG được thực hiện kiểm tra, tổ chức tham gia BHTG theo kế hoạch nội dung do NHNN giao. Theo tôi, đây là một cơ chế bổ sung thêm để phát huy vai trò, năng lực chuyên môn của tổ chức BHTG, hoàn toàn được kiểm soát chặt chẽ bởi kế hoạch, nội dung do NHNN (tức là cơ quan có thẩm quyền thanh tra). Chúng ta nên mạnh dạn giao thêm nhiệm vụ này, giao trên cơ sở có sự kiểm soát, điều phối của NHNN sẽ không có sự trùng lặp và sẽ có thêm một cơ chế để huy động nguồn nhân lực cũng như tham gia kiểm soát các TCTD.
Về thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, qua nghiên cứu dự án luật tôi thấy ngoài trường hợp chi trả đã được quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, dự thảo luật có mở rộng thêm 2 trường hợp chi trả BHTG:
Thứ nhất, dự án luật quy định trường hợp NHNN có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của TCTD được kiểm soát đặc biệt có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất quy định tại khoản 2 Điều 21.
Thứ hai, quy định trường hợp TCTD được kiểm soát đặc biệt bị mất hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả theo Luật Các tổ chức tín dụng. Trường hợp này NHNN sẽ báo cáo Chính phủ quyết định yêu cầu tổ chức BHTG chi trả - đây là khoản 3 Điều 21 dẫn chiếu về khoản 1 Điều 36.
Theo quy định của Luật tổ chức tín dụng, BHTGVN chỉ có thể chi trả cho người gửi tiền sau khi phương án phá sản TCTD được phê duyệt. Tuy nhiên, trong thực tiễn quy trình, thủ tục và thời gian để giải quyết phá sản cho tổ chức tín dụng thường kéo dài, phần nào ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền. Do đó, việc bổ sung 2 trường hợp này sẽ giúp người gửi tiền sớm tiếp cận được khoản tiền gửi bảo hiểm, giúp củng cố niềm tin của công chúng đồng thời là biện pháp giúp nhanh chóng xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém khi tiền gửi người dân đã được chi trả theo quy định.














