Sông Hoàng Long và vị hoàng đế khai minh Đinh Tiên Hoàng
Đầu xuân 2024, chúng tôi về thăm Kinh đô Hoa Lư xưa bên sông Hoàng Long khi chuẩn bị kỷ niệm 1.100 ngày sinh và 1.045 ngày mất Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên mở đầu thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền của nước ta.
Cố đô Hoa Lư vẫn còn đây. Sông Hoàng Long vẫn còn đó. Và dù vùng đất thiêng mang dấu ấn khai sáng cho dân tộc đang thay đổi mạnh mẽ nhưng những bí ẩn lịch sử về Đinh Tiên Hoàng và những nhân vật xung quanh ông mãi mãi là những câu chuyện quyến rũ mà các thế hệ sau không ngừng tìm cách giải mã.
Rồng vàng bất ngờ hiện lên đưa "Thủ lĩnh chăn trâu" qua sông
Hoàng Long có nghĩa Rồng Vàng. Sông Hoàng Long xưa còn có tên Đại Hoàng. Chuyện rằng, Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ nhà nghèo phải đi chăn trâu cho người chú ruột là Đinh Thúc Dự. Được lũ trẻ mục đồng yêu quý tôn làm thủ lĩnh, cậu bé họ Đinh bày trò chơi cờ lau tập trận, tự xưng vương, với hai bên tả hữu là Đinh Điền và Nguyễn Bặc hộ vệ. Đinh Bộ Lĩnh còn tổ chức lễ khao quân, làm thịt một con trâu của người chú để tế lễ và chiêu đãi “ba quân”.
Nghe tin, ông Đinh Thúc Dự tức giận đến kinh hãi, vội cầm gươm chạy ra đồng đuổi đánh “vua” cháu ngỗ nghịch phạm thượng rước họa vào dòng tộc. Đinh Bộ Lĩnh cùng bạn chăn trâu chạy trốn, tới bến đò Trường Yên thì cùng đường, nước lớn sông rộng mà không có đò. Bỗng từ lòng sông sóng cuộn dâng lên rồng vàng xuất hiện đón Đinh Bộ Lĩnh đưa sang bờ bên kia.
Đinh Thúc Dự đuổi tới bờ sông Đại Hoàng thấy rồng vàng cõng “vua” cháu thì càng thất kinh, bèn cắm gươm xuống đất chắp tay quỳ lạy theo. Con sông này từ ấy mang tên Hoàng Long, còn nơi Thúc Dự cắm gươm mọc lên một ngọn núi được dân gian gọi là núi Kiếp Lĩnh (Cắm Gươm) và con đường mà Bộ Lĩnh trốn chạy từ đồng ra sông nay là đường Vua Đinh. Từ truyền thuyết này mà về sau Lễ hội cố đô Hoa Lư luôn có tục rước nước từ sông Hoàng Long về Đền vua Đinh để tế thần linh.
Khởi đầu sông Hoàng Long là nơi ngã ba hợp lưu của sông Lạng và sông Bôi tại Kênh Gà. Khi chảy đến địa phận xã Gia Trung, huyện Gia Viễn thì sông Hoàng Long tách thành hai nhánh tả Hoàng Long và hữu Hoàng Long dài khoảng 4km ôm lấy mảnh đất này, với dòng chính bên nhánh hữu, rồi sau đó nhập thành một trở lại, chảy đến ngã ba Gián Khẩu hòa vào sông Đáy. Ngoài ra, trên hành trình của mình, sông Hoàng Long còn nhận thêm nước từ hệ thống sông Rịa và sông Chim đổ vào tại đập tràn Lạc Khoái.
So với những con sông khác thì chiều dài sông Hoàng Long khiêm tốn, chỉ khoảng 25km, chỗ rộng nhất 300m, nhưng đây lại là một trong bốn tuyến đường thủy quốc gia trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Sông Hoàng Long hợp cùng sông Đáy, sông Bôi và sông Lãng có vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc từ thời xưa đến nay.
Chẳng những gắn với những dấu tích huyền thoại của vua Đinh Tiên Hoàng mà sông Hoàng Long còn chính là nơi vua Lý Công Uẩn khởi hành dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, tức Thăng Long vào năm 1010. Đến thời nhà Trần, sông Hoàng Long với Cố đô Hoa Lư là căn cứ địa chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh các cây cầu hiện đại, dọc theo sông Hoàng Long có 12 bến đò. Và từ con sông huyết mạch này có thể theo các nhánh dẫn vào các di tích thắng cảnh tạo thành không gian văn hóa du lịch của Ninh Bình.
Ngày nay, sông Hoàng Long cũng là con đường huyết mạch để xây dựng, phát triển kinh tế của Cố đô Hoa Lư và cả tỉnh Ninh Bình, đặc biệt là về du lịch. Với địa thế núi sông hùng vĩ và các di tích lịch sử liên hoàn quý hiếm tạo nên không gian văn hóa, thiên nhiên đặc biệt cho Hoa Lư - Ninh Bình thu hút và chinh phục du khách bốn phương.
Hoàng đế khai minh một thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc
Không chỉ thời thơ ấu mà sông Hoàng Long gắn liền cả cuộc đời và sự nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên khai sáng, khẳng định nền độc lập tự chủ hoàn toàn cho nước Nam bấy giờ với quốc hiệu là Đại Cồ Việt so với phương Bắc.
Đinh Tiên Hoàng sinh thời được gọi Đinh Bộ Lĩnh, có sách nói ông họ Đinh tên Hoàn, còn Bộ Lĩnh là tước quan của sứ quân Trần Lãm phong cho ông nên còn gọi là Đinh Bộ Lĩnh. Sinh ngày rằm tháng hai năm Giáp Thân (tức 22 tháng 3 năm 924), ông quê ở thôn Kim Lự, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng nay là thôn Văn Bồng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cha là Đinh Công Trứ dưới thời nhà Ngô từng làm Thứ sử châu Hoan nhưng bị mất sớm, nên cậu bé họ Đinh phải theo mẹ là Đàm Thị về quê nương nhờ chú ruột là Đinh Thúc Dự.
Nếu như trong dân gian lưu truyền chuyện rồng vàng cõng "Thủ lĩnh mục đồng" qua sông Hoàng Long thì trong chính sử, “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng viết về Đinh Tiên Hoàng với những chi tiết đời thực hơn: “Vua lúc còn nhỏ chơi cùng với lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, lũ trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, nên cùng nhau tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, tất bắt chúng khoanh tay làm kiệu để khiêng và lấy hoa lau đi hai bên để rước như là nghi vệ thiên tử. Ngày rỗi sang đánh trẻ con thôn khác, đến đâu chúng đều sợ phục, rủ nhau hàng ngày đến kiếm củi thổi cơm để phục dịch. Bà mẹ thấy thế mừng lắm, mổ lợn của nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau rằng đứa trẻ này khí độ như thế, tất sẽ làm nên việc, bọn chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối không kịp”.
Năm 944, Ngô Quyền nhà vua sáng lập triều Ngô băng hà. Em vợ ông là Dương Tam Kha, con trai Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, tiếm ngôi tự xưng là Bình vương. Một thời gian sau, hai con trai của Ngô vương là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn đánh bại Dương Tam Kha lấy lại quyền lực và cùng làm vua điều hành triều chính. Tuy nhiên, từ đây nhà Ngô dần suy vi, đất nước rơi vào loạn lạc, quan lại và thổ hào có thế lực ở các địa phương nổi dậy cát cứ khắp nơi. Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp lực lượng, lấy động Hoa Lư làm căn cứ, xây dựng thế lực ngày càng hùng mạnh. Nhằm hòa hoãn với nhà Ngô, ông cho con trai là Đinh Liễn ra kinh thành Cổ Loa làm con tin.
Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh mất. Hơn 10 năm sau, Ngô Xương Văn bị chết trận. Chính quyền trung ương nhà Ngô do Ngô Xương Xí kế nghiệp dần tan rã. Đất nước càng thêm rối loạn cắt chia. 12 sứ quân nổi lên cát cứ chống lẫn nhau. Triều đình phương Bắc nhăm nhe đưa quân sang khôi phục ách đô hộ. Đinh Bộ Lĩnh quyết tâm dẹp loạn để thống nhất đất nước bằng các hình thức khác nhau, từ liên kết, vận động, thuyết khách, hàng phục và dùng sức mạnh quân sự đánh dẹp các thế lực cát cứ. Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn và các thuộc tướng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp, Lê Hoàn, Nguyễn Thân,… dùng mưu liên kết, hàng phục và cương quyết đánh dẹp các thế lực chống đối, chấm dứt tình trạng phân chia cát cứ, thống nhất đất nước.
Vào năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, tôn hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây dựng cung điện, đặt lễ nghi triều chính, đến năm 970 đổi niên hiệu là Thái Bình. Đây là dấu mốc rất quan trọng trong lịch sử dân tộc ta, khi người đứng đầu quốc gia chính thức xưng hoàng đế như một sự khẳng định về nền độc lập, tự chủ hoàn toàn, vì trước đó cha con họ Khúc và Dương Đình Nghệ chỉ xưng tiết độ sứ, đến Ngô Quyền thì mới xưng vương. Sau thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc, Đinh Tiên Hoàng cũng đã mở ra thời đại quân chủ phong kiến tập quyền trong lịch sử nước ta khi các triều đại kế tiếp sau này các vua đều xưng hoàng đế.
Đinh Tiên Hoàng ngoài việc xưng hoàng đế thì trước ông, các vua chỉ xưng vương và chưa có quốc hiệu, còn niên hiệu thì theo các hoàng đế Trung Quốc, nên việc đặt tên nước là Đại Cồ Việt và lấy niên hiệu Thái Bình đã khẳng định rằng đây là đất nước của riêng người Việt. Đặc biệt, vua Đinh còn ra lệnh đúc đồng tiền “Thái Bình hưng bảo” thêm phần khẳng định sự tự chủ về kinh tế bên cạnh sự độc lập về chính trị, ngoại giao, văn hóa của nước ta. Đúng như trong “Việt giám thông khảo tổng luận”, nhà sử học Lê Tung đã viết về Đại Thắng Minh Hoàng Đế: “Vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy”.