Siết đào tạo Tiến sĩ
Theo Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi, các chương trình đào tạo Tiến sĩ (TS) trong thời gian tới sẽ phải được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, thay vì để các trường có đủ điều kiện tự mở như hiện nay. Việc này nhằm bảo đảm rằng chỉ những cơ sở thực sự đủ điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, năng lực nghiên cứu… mới được phép triển khai chương trình đào tạo TS.

Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo tiến sĩ hàng đầu trong lĩnh vực báo chí và truyền thông tại Việt Nam.
Không đánh đổi chất lượng lấy số lượng
Thống kê đến năm 2022, cả nước có 196 cơ sở được phép đào tạo trình độ TS, tăng 1,66 lần so với năm học 2014-2015. Trong đó, có 157 cơ sở giáo dục Đại học (ĐH) và 39 viện nghiên cứu, trường của tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang và trường của bộ, ngành. Theo Luật hiện hành, các trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng chương trình ở bậc ĐH, thạc sĩ thì được tự chủ mở ngành phù hợp ở bậc TS, trừ khối ngành sức khỏe, đào tạo giáo viên, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Hoàng Minh Sơn, thời gian qua, Bộ nhận được không ít ý kiến phàn nàn về chất lượng đào tạo trình độ này của các đại biểu Quốc hội và người dân. Do đó, Bộ thấy cần quy hoạch lại để kiểm soát chất lượng. “Số cơ sở có quyền đào tạo trình độ TS sẽ bị thu hẹp. Các chương trình đào tạo TS thì Bộ sẽ phê duyệt 100%", Thứ trưởng nói.
Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ giảng viên có trình độ TS đạt ít nhất 40%. Thống kê năm 2024, cả nước có khoảng 91.300 giảng viên ở bậc ĐH, trong đó, hơn 30.000 giảng viên có trình độ TS trở lên, chiếm 33%. Tỷ lệ này ở các đại học Anh, Mỹ hay Malaysia, Srilanca lên đến 50-75%.
Theo một báo cáo của Bộ, quy mô đào tạo trình độ TS của Việt Nam còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực. Năm 2021, Việt Nam có khoảng 12.000 nghiên cứu sinh (NCS). Tính tỷ lệ trên dân số, con số này chưa bằng một phần ba so với Malaysia và Thái Lan, bằng một phần hai so với Singapore và xấp xỉ một phần chín so với trung bình 38 nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
Dễ vào có dễ ra?
Thống kê của Bộ GDĐT trung bình trong 3 năm 2022-2023-2024, mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng 6.000 NCS. Tuy nhiên, tỷ lệ tuyển sinh trình độ TS trong 3 năm học gần đây đều đạt dưới 50% chỉ tiêu.
Theo Bộ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Kim Sơn, giới hạn của trường ĐH không vượt qua được giới hạn của trình độ NCKH và nền kinh tế. Do đó, câu chuyện nâng cao chất lượng đào tạo TS là một quá trình, nâng dần cùng nâng cao nền khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Cần gia tăng chuyên nghiệp, gia tăng đầu tư cho đào tạo TS trong thời gian tới; trong đó khâu đầu tư “dứt khoát phải làm” là đầu tư, chăm sóc cho đội ngũ “người thầy” để phát triển đào tạo, ngay cả thể chế cũng phải giải phóng cho vấn đề này.
GS.TS Nguyễn Anh Trí, nguyên Viện trưởng Viện Huyết học Truyền máu Trung ương từng có phát biểu về một nghịch lý trong hệ thống giáo dục Việt Nam, rằng "thi vào cấp 1, cấp 2 thì rất khó, còn thi thạc sĩ, TS thì không khó lắm, thậm chí rất dễ". Thực tế, việc xét tuyển NCS của các cơ sở giáo dục ĐH, viện nghiên cứu hiện nay yêu cầu người dự tuyển cần đảm bảo các điều kiện về văn bằng, kinh nghiệm nghiên cứu, ngoại ngữ…. có thể yêu cầu thêm về thư giới thiệu tùy từng trường. Theo GS Nguyễn Đình Đức, việc tuyển đầu vào NCS có phần dễ dãi hơn nhiều so với trước đây phải thi cử. Trong khi đó, phương châm đào tạo hiện nay vẫn theo nguyên tắc bất thành văn là “có vào thì sẽ có ra” mà chưa có sự sàng lọc chặt chẽ. Đặc biệt, việc quy định học viên, NCS tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) cũng còn lỏng lẻo, chưa phát huy khả năng tìm tòi, ứng dụng kiến thức của người học. Bên cạnh các cơ sở đào tạo chấp hành tốt quy chế, lấy kết quả đào tạo làm đầu, chuyên gia này cũng chỉ ra một số nơi vẫn chạy theo số lượng, quản lý lỏng lẻo, dễ dãi trong thực hiện quy chế, chất lượng TS không cao, không thực chất. Vì vậy, GS Đức đề xuất các trường ĐH, đơn vị nghiên cứu cần siết chặt chất lượng đầu vào, và xác lập chuẩn đầu ra của các học viên cao học và NCS về công bố khoa học, đảm bảo sản phẩm đầu ra có năng lực nghiên cứu tốt, có đóng góp mới trong luận án.
Do đặc thù của bậc đào tạo TS là nghiên cứu chuyên sâu nên chương trình đào tạo NCS đòi hỏi hàm lượng NCKH cao hơn so với chương trình đào tạo ĐH hay cao học. NCS học TS, nghiên cứu đề tài về thực chất là gắn liền việc học tập với NCKH, dưới sự dìu dắt của thầy hướng dẫn. Nếu người thầy không đủ giỏi, không đủ tốt sẽ không thể định hướng tốt cho NCS trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy, GS Đức đề xuất cần xây dựng, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ khoa học, đảm bảo chuẩn quy định, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với thầy hướng dẫn, tạo động lực cho đào tạo sau ĐH phát triển.
Liên quan đến các chương trình đào tạo TS, các chuyên gia cho rằng phải vừa có tính chất cơ bản, hiện đại và thực tiễn, đồng thời gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo sau ĐH thông qua các nhóm nghiên cứu, các đề tài/dự án nghiên cứu để có bước thay đổi thực sự trong năng lực tư duy và tự nghiên cứu của người học. Phải quy định và quản lý chặt chẽ đào tạo NCS. Làm luận án TS phải là đào tạo chính quy, toàn thời gian, và có chế độ hỗ trợ về học bổng/lương dành cho NCS.
Trao đổi về vấn đề này, GS.TS Nguyễn Tiến Thảo, Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GDĐT) cho biết, Bộ GDĐT chỉ quản lý chương trình có đạt chuẩn hay không, có đủ điều kiện để đào tạo TS hay không. Chất lượng cụ thể của từng luận án, từng NCS là trách nhiệm của cơ sở đào tạo và các cá nhân liên quan. Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT đã nêu rõ trách nhiệm của người hướng dẫn, hội đồng đánh giá, và các bên liên quan. Việc tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện các quy định này thuộc về các cơ sở đào tạo.
Rào cản chi phí học tập, nghiên cứu
Theo Đề án "Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục ĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030" (gọi tắt là Đề án 89), trong thời gian theo học các chương trình đào tạo TS, thạc sĩ tại cơ sở đào tạo; người học được cấp kinh phí hỗ trợ của Đề án theo thời hạn phê duyệt của Bộ GDĐT. Đồng thời, vẫn được nhận thêm hỗ trợ tài chính từ các tổ chức, cá nhân khác trong quá trình học tập, nghiên cứu nếu không phải là học bổng toàn phần.
Bên cạnh đó, tùy từng trường có chính sách hỗ trợ học bổng cho NCS riêng như Trường ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho biết các học viên thạc sĩ, TS đang làm việc ở trường sẽ được cấp học bổng tương đương học phí (30-40 triệu đồng một năm), vẫn nhận lương và các quyền lợi khác. Nếu không thuộc diện này, người học vẫn được miễn học phí, đồng thời nhận thêm hỗ trợ sinh hoạt phí lần lượt 5 và 7 triệu đồng mỗi tháng và nhận thêm thù lao khi tham gia hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ khác. Yêu cầu đặt ra là người học phải học tập, nghiên cứu toàn thời gian tại trường, đảm bảo tiến độ theo kế hoạch, tích cực tham gia các đề tài khoa học và khóa học nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy.
Tuy nhiên, không phải trường nào cũng có chính sách hỗ trợ, phần lớn NCS đều phải nộp kinh phí đào tạo và học phí hằng năm theo quy định hiện hành của Chính phủ. Đồng thời người học còn phải tự trang trải cuộc sống thường nhật nên khó có thể dành thời gian cũng như kinh tế để tham gia hội thảo ở nước ngoài hoặc công bố quốc tế. Theo GS Đức, đây cũng là một vấn đề khiến cho công bố quốc tế trong quá trình làm NCS không đạt được kỳ vọng như mong muốn. Vì vậy, chuyên gia này đề xuất cần có chính sách tăng kinh phí cho hoạt động đào tạo TS, đồng thời sửa đổi Luật, để bên cạnh học phí còn có kinh phí hỗ trợ đào tạo như trước đây (nguồn kinh phí từ Nhà nước, nhà trường và các nguồn khác để NCS không phải đóng học phí) trong quá trình đào tạo NCS. Chúng ta không thể có NCS giỏi, không thể có chất lượng luận án tốt với nhiều công bố quốc tế hoặc sản phẩm KHCN có uy tín nếu duy trì mãi nguồn kinh phí đào tạo TS ít ỏi như hiện nay.
GS.TS Nguyễn Tiến Thảo thông tin, trong dự thảo Luật Giáo dục ĐH sửa đổi đề xuất nhiều chính sách ưu đãi hơn cho NCS, như cấp học bổng, hỗ trợ tài chính, tài trợ nghiên cứu cho NCS; tạo điều kiện tiếp cận các chương trình đào tạo trình độ cao trong và ngoài nước, đặc biệt với giảng viên trẻ, giảng viên tiềm năng. Điều này được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo TS cùng với các điều kiện về năng lực ngoại ngữ, yêu cầu công bố hội thảo, công bố quốc tế... bảo đảm rằng TS Việt Nam có thể tiệm cận chuẩn khu vực và thế giới.
TS Phạm Hiệp - Viện trưởng VIện Nghiên cứu Giáo dục và Chuyển giao tri thức, Trường ĐH Thành Đô: Gỡ nút thắt nâng cao chất lượng tiến sĩ
Việc Bộ GDĐT triển khai các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo TS là đúng. Song tôi cũng băn khoăn khi Bộ phê duyệt chương trình đào tạo TS có thể ảnh hưởng đến quyền tự chủ học thuật của các trường.
Theo tôi, để nâng cao chất lượng đào tạo TS có thể triển khai nhiều giải pháp trong đó Bộ cần ban hành quy chế đào tạo TS “chuẩn” với các điều kiện, tiêu chí cụ thể thì tức khắc các cơ sở “không đạt chuẩn” sẽ tự biến mất hoặc phải chủ động nâng chuẩn để đảm bảo yêu cầu. Tôi cho rằng những yêu cầu của Bộ đưa ra đối với các trường được mở ngành đào tạo TS hiện nay đã rất cơ bản, thậm chí có một số quan điểm cho rằng “hơi chặt”. Vấn đề theo tôi nằm ở một số nội dung khác như cần tăng cường đầu tư hơn theo nghĩa là đầu tư của nhà nước và đầu tư của từng trường cả về mặt tài chính cũng như các vấn đề phi tài chính.
Ví dụ chúng ta vẫn nói về câu chuyện đạo văn. Tôi cho rằng Bộ cần đưa ra yêu cầu bắt buộc tất cả các trường phải có phần mềm check đạo văn chuẩn. Đó phải là các phần mềm uy tín, không sử dụng các phần mềm check đạo văn kém chất lượng. Đồng thời phải có thẩm định về check đạo văn. Nhiều người hiểu một cách cơ học rằng dưới bao nhiêu phần trăm là không phải đạo văn và trên bao nhiêu phần trăm thì là đạo văn. Điều này không hoàn toàn chính xác. Có nhiều mức độ về đạo văn nên cần thẩm định.
Trước đây, quy định phải có bài báo quốc tế hoặc bài đăng kỉ yếu hội thảo quốc tế trong nước và ngoài nước để khóa chất lượng đầu ra trong đào tạo TS, theo tôi đó là một cách tốt để nâng chất lượng. Thông tư 18 bỏ quy định này nhưng quy định NCS phải là NCS toàn thời gian và có tham gia sinh hoạt chuyên môn định kỳ với cơ sở đào tạo. Điều đó có nghĩa NCS phải dành toàn bộ thời gian cho việc học tập, nghiên cứu và thực hiện các hoạt động chuyên môn theo yêu cầu của chương trình đào tạo. Việc tham gia sinh hoạt chuyên môn định kỳ với nhà trường là một trong những yêu cầu bắt buộc để đảm bảo chất lượng và tiến độ của quá trình đào tạo. Bên cạnh đó, Thông tư 18 cũng có một số quy định về việc cho phép NCS được làm việc ngoài thời gian đào tạo nếu được sự đồng ý của cơ sở đào tạo và không ảnh hưởng đến việc học tập, nghiên cứu. Vậy quy định này đã được các trường triển khai ra sao, giám sát thế nào?
Tiếp nữa là cần nâng cao quỹ học bổng dành cho NCS, để NCS yên tâm làm luận án thay vì vừa học vừa làm. Điều này đang được quan tâm ra sao? Đầu tư của nhà nước đầu tư vào các trường như thế nào? Hiện nay chưa có thống kê và rà soát về chuyện này hoặc nếu có cũng mới ở quy mô nhỏ lẻ, chưa được thống kê đầy đủ.
Tôi lấy ví dụ với những cái đề tài lớn, hiện việc cấp kinh phí cho NCS chưa được nêu rõ thành mục riêng mà vẫn nằm trong kinh phí tổng thể. Nếu có quỹ riêng cho NCS hoặc quy định rõ mỗi đề tài phải dành cho NCS bao nhiêu phần trăm, chẳng hạn tối thiểu 15% và nếu không chi trả cho NCS thì phải trả lại Nhà nước, tôi tin rằng sẽ tạo động lực thúc đẩy NCS NCKH toàn thời gian hơn.
Tôi có một số đề xuất liên quan đến thư viện điện tử của các trường đại học. Hiện nay chưa có nhiều trường có thư viện điện tử kết nối được các tài liệu quốc tế một cách đầy đủ. NCS thiếu tư liệu, dữ liệu về ngành nghiên cứu, không truy cập được vào những bộ dữ liệu lớn của thế giới mà chủ yếu thực hiện khảo sát thì thường dữ liệu sẽ rất nhỏ. Nếu truy cập được những bộ dữ liệu lớn làm trong nhiều năm và ở nhiều quốc gia, ở nhiều tỉnh, nhiều đơn vị khác nhau… thì chất lượng luận án sẽ tốt hơn.
Đề xuất thứ hai là về việc đào tạo các môn học để chuẩn bị cho việc làm luận án. Nên tiến tới như ở nước Mỹ, trong vòng 1-2 năm đầu không được làm luận án mà NCS cần học về phương pháp… Hiện nay các trường đều có nhưng theo tôi tổ chức chưa tốt do thường tổ chức vào buổi tối hay vào cuối tuần. Tôi cho rằng phải học như sinh viên đại học, học trong tuần, học rất căng. Và sau đó tiến tới có kỳ thi đánh giá chất lượng hoặc một buổi sát hạch lớn, làm tốt mới được làm luận án.
Chính bản thân tôi cũng từng trải qua kỳ thi như vậy khi làm NCS và phải bỏ thi lần đầu vì chưa đủ sẵn sàng. Ở Việt Nam có tổ chức đánh giá ba chuyên đề nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa làm chặt. Vấn đề là nhà trường có quyết liệt thực hiện không vì điều này có thể dẫn tới tình trạng khó quá, nhiều người bỏ không làm luận án. Nhưng lúc này, trở lại bài toán chất lượng được đảm bảo thay vì chạy theo số lượng.
Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/siet-dao-tao-tien-si-10311847.html