Sáu chiều không gian phát triển của TPHCM – Không gian văn hóa: Sức mạnh mềm và bản sắc để định vị TPHCM trong mạng lưới đô thị toàn cầu

LTS: Trước những thách thức trong bối cảnh mới, TPHCM cần một bước ngoặt tư duy: tái cấu trúc lại không gian mặt đất để sử dụng hiệu quả hơn, đồng thời mở rộng tầm nhìn sang năm không gian phát triển mới: biển, bầu trời, lòng đất, số và văn hóa. Khi được quy hoạch đồng bộ và kết nối, những không gian này sẽ vừa giảm tải cho mặt đất, vừa mở ra biên độ phát triển mới cho một TPHCM năng động, bền vững và sáng tạo hơn trong kỷ nguyên mới.

Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi. Ảnh: N.K

Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi. Ảnh: N.K

TPHCM đang ở thời điểm phải khẳng định mình không chỉ bằng những con số tăng trưởng, mà bằng bản sắc văn hóa và sức mạnh mềm trong mạng lưới các đô thị toàn cầu. Bên cạnh vai trò đầu tàu kinh tế, TPHCM ngày càng ý thức rõ văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là nguồn lực và động lực cho phát triển.

Không gian văn hóa và vai trò chiến lược kết nối các không gian khác

Trong hệ sinh thái phát triển đô thị, văn hóa không còn là “phần trang trí” mềm bên ngoài các chính sách kinh tế - xã hội, nó là một chiều phát triển chiến lược độc lập, có khả năng chi phối, kết nối và nâng tầm mọi không gian phát triển khác của TPHCM. Văn hóa vừa là nền móng tinh thần vừa là động lực sáng tạo vừa là chất keo liên kết hệ thống đô thị theo cách mà kinh tế hay hạ tầng thuần túy không thể làm được.

Trước hết, ở không gian mặt đất, nơi hiện hữu của hạ tầng, kiến trúc và cảnh quan, văn hóa chính là “ngôn ngữ” định hình bản sắc đô thị. TPHCM sở hữu hơn 190 di tích các loại, từ những biểu tượng thuộc địa như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, đến những di sản cách mạng như Địa đạo Củ Chi. Khi được tích hợp tinh tế vào quy hoạch, di sản trở thành nguồn lực tạo bản sắc, tạo “ký ức tập thể” cho cư dân, đồng thời gia tăng sức hấp dẫn với du khách quốc tế. Tuy nhiên, bảo tồn không chỉ là giữ nguyên trạng, nó cần được “tái diễn giải” trong dòng chảy hiện đại, giống như cách Melbourne đưa nghệ sĩ vào các dự án quy hoạch để mỗi công trình đô thị đều có thông điệp văn hóa của riêng nó. Đây cũng là tư duy TPHCM cần mạnh dạn theo đuổi: thay vì xây dựng trước - tô điểm sau, phải đặt văn hóa vào ngay từ khâu thiết kế đô thị.

Ở không gian lòng đất, văn hóa trong hạ tầng ngầm chính là chiều sâu mới của đô thị hiện đại. Tokyo, Seoul và Singapore cho thấy hạ tầng ngầm có thể trở thành trung tâm nghệ thuật, triển lãm, thư viện mini, chợ văn hóa, không gian biểu diễn đường phố, giúp văn hóa thấm vào đời sống thường nhật của hàng triệu người dân. Những không gian ngầm văn hóa này còn tạo điểm đến tránh nóng, tránh mưa, tăng tính tiện lợi và kết nối đô thị. Đối với TPHCM, khi hệ thống metro đang hình thành, đây là cơ hội vàng để thiết kế tầng ngầm giàu tính nghệ thuật như ga metro trưng bày ảnh xưa Sài Gòn, không gian ngầm kết hợp thư viện, trình diễn nghệ thuật, triển lãm về di sản Chợ Bến Thành hay lịch sử đô thị.

Lễ hội sông nước TPHCM. Ảnh: N.K

Lễ hội sông nước TPHCM. Ảnh: N.K

Còn với không gian bầu trời, đó chính là câu chuyện của kinh tế tầm thấp kết hợp với văn hóa tầm cao. Đầu tiên, phải khẳng định rằng một đô thị muốn “bay lên” không chỉ cần máy móc và công nghệ, mà cần những con người có tầm nhìn, lý tưởng và bản lĩnh. Những phẩm chất này phần lớn được nuôi dưỡng bởi môi trường văn hóa - giáo dục. Để từ đó, văn hóa có thể trở thành trục mềm của kinh tế tầm thấp. Sự kết hợp này biến công nghệ bay thành một phương thức truyền thông văn hóa độc đáo. Giống như cách Seoul khai thác drone show để xây dựng hình ảnh thành phố sáng tạo, TPHCM hoàn toàn có thể phát triển các chương trình nghệ thuật trên không, các sự kiện drone-light, hoặc tuyến du lịch bay kể chuyện bằng công nghệ. Không gian bầu trời khi đó sẽ vừa là hạ tầng mới của kinh tế, vừa là “sân khấu mới” của văn hóa đô thị.

Không có không gian văn hóa, đô thị chỉ là một cấu trúc vật chất. Khi có không gian văn hóa, TPHCM trở thành một thành phố có linh hồn, có sức hút và có khả năng truyền cảm hứng.

Trong không gian số - dữ liệu, văn hóa là linh hồn của những giá trị lan tỏa. Nếu hạ tầng số là “đường dẫn”, thì nội dung văn hóa chính là “dòng chảy” trong đó. TPHCM đứng trước cơ hội xuất khẩu văn hóa theo cách nhanh nhất trong lịch sử thông qua game, âm nhạc số, vlog du lịch, phim ảnh trực tuyến và vô số hình thức sáng tạo nội dung khác. Một ca khúc dân gian phối khí hiện đại có thể trở thành xu hướng quốc tế chỉ trong vài giờ. Một đoạn phim ngắn về ẩm thực hay đời sống Sài Gòn có thể thu hút hàng triệu người xem toàn cầu. Một tựa game lấy TPHCM cùng các địa danh nổi tiếng làm bối cảnh chủ đạo có thể “viral” và thu hút đông đảo giới trẻ đi tìm các địa điểm ấy trên thực tế.

Ở không gian biển, văn hóa lại đóng vai trò cầu nối giữa TPHCM và thế giới. Lịch sử thành phố vốn gắn với cảng thị và giao thương quốc tế, tạo nên một bản sắc đa văn hóa đặc biệt. Những giá trị văn hóa ven biển như lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ hay bản sắc cư dân vùng cửa biển không chỉ là ký ức cộng đồng mà còn là tài sản du lịch, văn hóa độc đáo. Phát huy chúng giúp TPHCM định hình hình ảnh một đô thị gắn với sông nước và hải cảng, hòa mình vào mạng lưới các thành phố cảng sáng tạo trên thế giới.

Tựu trung, văn hóa chính là mạch ngầm liên kết tất cả các không gian phát triển của TPHCM. Nó thấm vào vật chất, gợi mở tầm nhìn, kiến tạo môi trường sống, thúc đẩy sáng tạo và đưa con người lại gần nhau.

Không có không gian văn hóa, đô thị chỉ là một cấu trúc vật chất.

Khi có không gian văn hóa, TPHCM trở thành một thành phố có linh hồn, có sức hút và có khả năng truyền cảm hứng.

Bài học từ các đô thị văn hóa tiêu biểu trên thế giới

Muốn định vị TPHCM trong mạng lưới đô thị toàn cầu bằng sức mạnh mềm văn hóa, chúng ta không thể chỉ “tự xoay” trong kinh nghiệm của riêng mình. Nhìn sang những thành phố đã thành công như Seoul, Paris, Melbourne chính là cách soi lại con đường mà TPHCM đang đi và có thể đi xa hơn.

Từ một đất nước nghèo sau chiến tranh, Hàn Quốc đã chọn một con đường khác biệt, đó là xem văn hóa là ngành kinh tế mũi nhọn. Từ cuối những năm 1990, Hàn Quốc ban hành Luật Công nghiệp văn hóa, lập quỹ hỗ trợ phim ảnh, âm nhạc, xuất khẩu nội dung. Kết quả là làn sóng Hallyu bùng nổ, phim truyền hình, K-pop, điện ảnh Hàn lan ra toàn cầu, kéo theo dòng du khách, đầu tư và hình ảnh quốc gia tăng vọt.

Không có con người, mọi chiến lược văn hóa chỉ nằm trên giấy. TPHCM cần song song nuôi dưỡng công chúng văn hóa và đào tạo đội ngũ sáng tạo, quản lý.

Seoul biết cách tận dụng “cơn sốt” ấy. Thành phố biến các bối cảnh phim, khu mua sắm, concert K-pop,... thành điểm đến “hành hương văn hóa”, thu về nguồn thu khổng lồ từ khách quốc tế. Song song, Seoul đầu tư mạnh hạ tầng văn hóa: Seoul Arts Center, bảo tàng, thư viện, công viên sáng tạo, Digital Media City,...

Điểm đáng chú ý là sự điều chỉnh chiến lược qua từng thời kỳ. Có giai đoạn, Seoul đẩy mạnh các biểu tượng “hào nhoáng toàn cầu” (Design Seoul, Olympic thiết kế), nhưng sau đó chuyển trọng tâm trở lại với cộng đồng như hỗ trợ nghệ sĩ độc lập, phục hồi chợ truyền thống bằng nghệ thuật đường phố, đưa văn hóa đến từng khu dân cư.

Bài học phù hợp cho TPHCM từ trường hợp của Seoul là:

(i) Muốn có sức mạnh mềm, phải dám coi văn hóa là “ngành mũi nhọn”;

(ii) Cần một chiến lược “xuất khẩu văn hóa” rõ ràng, chọn vài mũi nhọn có lợi thế để đầu tư bài bản, hướng thẳng ra thị trường quốc tế;

(iii) Không quên nền tảng tại chỗ: xây studio, không gian sáng tạo, nhà hát nhỏ, mô hình “khu văn hóa trẻ” để văn hóa sống trong đời sống hằng ngày, chứ không chỉ trên thảm đỏ và sân khấu lớn.

Tiếp theo chính là câu chuyện của Paris, hình mẫu kinh điển về một thành phố biến di sản thành sức mạnh mềm. Hàng trăm bảo tàng, nhà hát, kiến trúc biểu tượng (bảo tàng Louvre, tháp Eiffel, Nhà thờ Đức Bà,...) không chỉ được bảo tồn cẩn trọng, mà còn được “kích hoạt” bằng sáng tạo. Ga tàu cũ thì thành bảo tàng (Orsay), nhà xưởng cũ thành trung tâm nghệ thuật (Centquatre), bờ sông thành không gian triển lãm, biểu diễn.

Điểm đáng học hơn cả là triết lý “văn hóa là quyền của mọi người”, không phải đặc quyền của thiểu số có tiền và thời gian. Paris có những chủ trương rất rõ ràng và rất đáng để học hỏi.

Đầu tiên, mỗi khu phố đều có thiết chế văn hóa, công viên, thư viện trong bán kính “15 phút đi bộ”.

Thứ hai, trẻ em được tiếp cận nghệ thuật ngay từ ghế nhà trường. Thành phố phối hợp với trường học đưa nhạc, kịch, mỹ thuật vào lịch học và hoạt động ngoại khóa.

Thứ ba, các mô hình lưu động (xe thư viện, chiếu phim ngoài trời, biểu diễn đường phố) đưa văn hóa ra ngoại vi, khu dân cư thu nhập thấp.

Bài học phù hợp cho TPHCM từ trường hợp của Paris là:

(i) Bảo tồn di sản gắn với tái sử dụng sáng tạo: di tích, kiến trúc cũ không chỉ “để ngắm”, mà có thể thành sân khấu, không gian nghệ thuật.

(ii) Xây dựng một chiến lược “an sinh văn hóa”: nhà văn hóa, thư viện, công viên nghệ thuật ở mọi nơi, có chính sách vé ưu đãi hoặc miễn phí cho học sinh, sinh viên, người thu nhập thấp.

(iii) Khi quy hoạch khu mới cần tư duy “bán kính 15 phút”, không gian văn hóa, cây xanh, thể thao phải được tính như hạ tầng thiết yếu, chứ không phải thứ thêm sau cùng.

Còn Melbourne thì lại là minh chứng cho một đô thị trẻ nhưng lên tầm nhờ sáng tạo và đa văn hóa. Lễ hội, liên hoan nghệ thuật, hài kịch, phim, văn chương dày đặc quanh năm. Thể thao cũng được “bọc” trong văn hóa khi mỗi giải Australian Open, F1, Melbourne Cup là một festival ẩm thực, âm nhạc, thời trang.

Chiến lược sáng tạo Melbourne đặt một luận điểm rõ ràng: sáng tạo không phải phần phụ, mà phải được tích hợp vào mọi chính sách đô thị. Thành phố mời nghệ sĩ, nhà thiết kế tham gia giải bài toán giao thông, không gian công cộng, môi trường, nghệ thuật đường phố được hợp pháp hóa và quản lý, biến những con hẻm graffti thành điểm check in toàn cầu.

Melbourne cũng chủ động biến đa văn hóa thành tài sản như khu người Hoa, người Việt, người Hy Lạp, lễ hội Tết, Diwali, lễ hội Hy Lạp..., làm nên bản đồ văn hóa sống động, khiến du khách lẫn người nhập cư cảm thấy được chào đón. Thành phố còn tài trợ cho nhóm nghệ sĩ bản địa, cộng đồng thiểu số, bảo đảm sự công bằng văn hóa.

Bài học phù hợp cho TPHCM từ trường hợp của Melbourne là:

(i) Cần một chiến lược sáng tạo đô thị của riêng mình: mọi dự án lớn, nhỏ phải xuất phát chung nền tư duy là tạo ra các biểu tượng mới của TPHCM thế kỷ 21.

(ii) Biến sự đa dạng của TPHCM, người từ khắp miền, cộng đồng các dân tộc anh em, người nước ngoài thành tài sản văn hóa qua các phố chuyên đề, lễ hội đa văn hóa, tuyến phố ẩm thực, nghệ thuật đêm.

(iii) TPHCM phải trở thành thành phố nhiều trải nghiệm văn hóa. Nếu văn hóa nghèo nàn, thành phố sẽ tự đẩy người tài ra đi.

Từ Seoul, Paris đến Melbourne, có một mẫu số chung rất dễ thấy là văn hóa không đi sau kinh tế, mà đi cùng và dẫn dắt.

Đề xuất khung chính sách phát triển không gian văn hóa TPHCM

Mục tiêu của khung chính sách này là đưa văn hóa trở thành trụ cột phát triển, sức mạnh mềm cạnh tranh và nguồn lực sáng tạo của thành phố, vừa đóng góp trực tiếp vào GRDP thông qua công nghiệp văn hóa, vừa nâng cao chất lượng sống và định vị thương hiệu TPHCM trên bản đồ đô thị toàn cầu.

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và quản trị văn hóa

Trước hết, thành phố cần một khung thể chế văn hóa hiện đại và đủ tầm. Việc xây dựng và ban hành “Chiến lược phát triển văn hóa TPHCM đến 2035, tầm nhìn 2045” là bước đi nền tảng. Chiến lược này phải xác định rõ tầm nhìn, chỉ tiêu định lượng (tỷ lệ đóng góp của công nghiệp văn hóa, số sự kiện quốc tế, mức hưởng thụ văn hóa bình quân,...) và bản đồ không gian văn hóa trong tổng thể quy hoạch đô thị.

Để tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm”, TPHCM cần một cơ chế điều phối liên ngành. Một hội đồng phát triển văn hóa do lãnh đạo UBND thành phố đứng đầu, với sự tham gia của các sở ngành chủ chốt và chuyên gia độc lập, có thể đóng vai trò “nhạc trưởng” cho toàn bộ hệ sinh thái. Cùng với đó là việc phân công rõ trách nhiệm giữa các sở để mọi chính sách văn hóa được gắn chặt với giáo dục, truyền thông, du lịch, đối ngoại.

Bên cạnh đó, TPHCM nên tận dụng cơ chế đặc thù để thí điểm các chính sách “mở đường” cho sáng tạo như thị thực văn hóa dài hạn cho nghệ sĩ, cơ chế một cửa cấp phép sự kiện quốc tế, khung pháp lý linh hoạt cho sản xuất phim và nội dung số, thực thi nghiêm luật bản quyền. Trên nền đó, một cơ sở dữ liệu văn hóa số cùng bộ “Chỉ số phát triển văn hóa TPHCM” hàng năm sẽ giúp thành phố quản lý bằng dữ liệu, thay vì chỉ dựa vào cảm tính.

Thứ hai, huy động nguồn lực và đầu tư công - tư cho văn hóa

Muốn văn hóa “đứng ngang hàng kinh tế”, không thể chỉ trông chờ ngân sách tượng trưng. TPHCM cần tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho văn hóa, ưu tiên cho các công trình đầu mối như bảo tàng mới, nhà hát giao hưởng, thư viện thông minh, trung tâm văn hóa. Đồng thời lập các quỹ như Quỹ bảo tồn di sản, Quỹ hỗ trợ sáng tạo nghệ thuật, Quỹ công nghiệp văn hóa.

Tuy nhiên, ngân sách nhà nước chỉ nên đóng vai “vốn mồi”. Phần còn lại đến từ xã hội hóa và hợp tác công tư (PPP). Thành phố cần gói ưu đãi rõ ràng cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng văn hóa (rạp chiếu phim, khu giải trí, bảo tàng tư nhân, không gian sáng tạo), áp dụng mô hình PPP cho các dự án lớn và mạnh dạn áp dụng cơ chế “Nhà nước đặt hàng - tư nhân thực hiện” đối với phim quảng bá, ứng dụng du lịch văn hóa, festival, sự kiện quốc tế.

Song song, TPHCM nên có chiến lược hình thành một số “đầu tàu văn hóa” - các doanh nghiệp lớn trong điện ảnh, giải trí, thời trang, truyền thông bằng cách hỗ trợ đất đai, tín dụng, gọi vốn quốc tế. Khi có những “tập đoàn văn hóa” đủ tầm khu vực, hệ sinh thái hàng trăm doanh nghiệp vệ tinh sẽ tự nhiên hình thành xung quanh. Nguồn lực cộng đồng và các chương trình, quỹ hỗ trợ quốc tế cũng cần được khai thác như một “dòng vốn mềm” lâu dài.

Thứ ba, giáo dục văn hóa và phát triển nguồn nhân lực sáng tạo

Không có con người, mọi chiến lược văn hóa chỉ nằm trên giấy. TPHCM cần song song nuôi dưỡng công chúng văn hóa và đào tạo đội ngũ sáng tạo, quản lý.

Ở bậc học phổ thông, có thể triển khai chương trình “Mỗi trường là một không gian văn hóa” như đưa học sinh đến bảo tàng, di tích, mời nghệ sĩ giao lưu, phát triển sân khấu học đường, câu lạc bộ nghệ thuật, tích hợp lịch sử, di sản địa phương vào chương trình học. Mục tiêu là để thế hệ trẻ “tắm mình” trong không khí văn hóa ngay từ nhỏ, coi bảo tàng, nhà hát, thư viện là địa chỉ quen thuộc chứ không phải nơi xa lạ.

Với giáo dục đại học, TPHCM nên trở thành trung tâm đào tạo nhân lực công nghiệp văn hóa thông qua chiến lược mở các ngành quản lý nghệ thuật, kinh doanh giải trí, truyền thông số, thiết kế sáng tạo. Đồng thời kết nối chặt chẽ với doanh nghiệp qua chương trình thực tập, dự án thực tế. Một trung tâm đào tạo và khởi nghiệp sáng tạo về nội dung, nghệ thuật sẽ là “vườn ươm” cho các startup văn hóa.

Đồng thời, các chính sách thu hút nhân tài văn hóa quốc tế, Việt kiều, nghệ sĩ tên tuổi về làm việc, giảng dạy, sáng tác tại TPHCM thông qua visa ưu đãi, không gian làm việc, hỗ trợ dự án sẽ giúp thành phố rút ngắn khoảng cách kỹ năng với các trung tâm văn hóa lớn. Không kém phần quan trọng là nâng cấp đội ngũ quản lý văn hóa, bồi dưỡng tư duy thị trường, kỹ năng quản trị, marketing, xây dựng thương hiệu cho bảo tàng, nhà hát, festival.

Thứ tư, bảo tồn di sản và phát huy bản sắc đô thị

Di sản không chỉ là “ký ức đẹp”, mà là tài sản chiến lược của một thành phố muốn khác biệt giữa rừng đô thị na ná nhau. TPHCM cần cùng lúc làm ba việc: bảo tồn, tái sử dụng sáng tạo và kể lại câu chuyện của mình một cách hấp dẫn.

Ở lớp vật thể, thành phố phải hoàn tất kiểm kê di sản, xếp hạng kịp thời, tăng nguồn lực và áp dụng công nghệ để trùng tu đúng chuẩn. Mục tiêu là “không đánh mất thêm một di sản giá trị nào vì phát triển nóng”. Nhưng bảo tồn không đồng nghĩa với đóng băng. Nhiều công trình có thể được tái sử dụng sáng tạo thành không gian văn hóa, quán sách, quán cà phê nghệ thuật, không gian sáng tạo.

Ở lớp phi vật thể, từ đờn ca tài tử, hát bội, lân sư rồng người Hoa, lễ hội Nghinh Ông đến ẩm thực Sài Gòn,... tất cả đều có thể trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch đặc trưng nếu có chiến lược hỗ trợ nghệ nhân, câu lạc bộ, tổ chức festival, sân chơi biểu diễn và quảng bá đúng cách. Cùng với đó, “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” cần được triển khai sâu hơn đến cấp phường, khu dân cư, trường học, để nhân văn, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thực sự thấm vào lối sống đô thị.

Đây chính là năng lượng nội sinh giúp TPHCM tự tin hội nhập mà không hòa tan.

Thứ năm, thúc đẩy sáng tạo nghệ thuật và công nghiệp văn hóa

Để không gian văn hóa thực sự sống động, thành phố phải có sản phẩm văn hóa hấp dẫn, mang dấu ấn riêng. Trọng tâm là xây dựng hệ sinh thái công nghiệp văn hóa với một số ngành mũi nhọn như điện ảnh, nội dung số, âm nhạc, thời trang, thiết kế, mỹ thuật, du lịch văn hóa.

TPHCM có thể quy hoạch các cụm sáng tạo chuyên đề như tổ hợp phim - truyền hình, cụm thiết kế - thời trang, cụm game - nội dung số gắn với các trường công nghệ. Hạ tầng tốt, ưu đãi mặt bằng, Internet tốc độ cao, cộng đồng sáng tạo đông đúc sẽ tạo “hiệu ứng cụm” cho công nghiệp văn hóa.

Song song, thành phố cần quỹ hỗ trợ sáng tạo nghệ thuật, hỗ trợ sản xuất phim, vở diễn, dự án âm nhạc, mỹ thuật, đặc biệt là tác phẩm về TPHCM đương đại cùng với cơ chế bảo hộ bản quyền mạnh để nghệ sĩ yên tâm đầu tư trí tuệ. Với danh hiệu “Thành phố điện ảnh” UNESCO, TPHCM nên thiết lập Film Office, quỹ phim, liên hoan phim quốc tế, thị trường phim,... để trở thành một trong những “thủ phủ sản xuất nội dung” của khu vực.

Ở bình diện rộng hơn, các sản phẩm văn hóa “Made in Saigon” cần được định hướng ra thị trường khu vực và toàn cầu bằng cách dịch thuật, tham gia festival, hội chợ, lưu diễn, hợp tác đồng sản xuất. Khi đó, văn hóa không chỉ là “chi phí đầu tư”, mà trở thành một ngành xuất khẩu giá trị cao, gia tăng sức ảnh hưởng của thành phố.

Thứ sáu, mở rộng không gian công cộng và hạ tầng văn hóa đô thị

Một thành phố giàu văn hóa không thể thiếu không gian để người dân sống, chơi và tương tác với văn hóa mỗi ngày. TPHCM cần bổ sung các quảng trường, công viên, phố đi bộ, không gian ven sông, khu đi bộ ven kênh,... được thiết kế như “phòng khách mở” của thành phố, nơi thường xuyên diễn ra sự kiện nghệ thuật, biểu diễn đường phố, triển lãm, chợ phiên sáng tạo.

Cùng với đó, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, trung tâm sinh hoạt cộng đồng cần được phủ kín đến phường xã với hoạt động thực chất, chứ không chỉ là những tòa nhà khóa cửa. Thành phố cũng nên cho phép sử dụng tạm thời các không gian trống thành studio, gallery, không gian biểu diễn độc lập (indie), tạo cơ hội cho sáng tạo “từ dưới lên”.

Đưa nghệ thuật vào không gian công cộng như tranh tường, tượng ngoài trời, thiết kế ghế phố, ánh sáng nghệ thuật để vừa làm đẹp thành phố, vừa nâng gu thẩm mỹ cộng đồng. Cải thiện kết nối giao thông đến các thiết chế văn hóa, phát triển tuyến xe buýt/metro văn hóa, bảng chỉ dẫn song ngữ và QR giới thiệu di sản sẽ giúp văn hóa trở nên “chạm tay được” với mọi nhóm dân cư.

Cuối cùng, truyền thông và quảng bá hình ảnh TPHCM ra thế giới

Sức mạnh mềm chỉ được kích hoạt khi thành phố biết kể câu chuyện của mình một cách nhất quán và hấp dẫn. TPHCM cần một chiến lược thương hiệu thành phố chuyên nghiệp, với bộ nhận diện (giá trị cốt lõi, slogan, logo, hệ thống hình ảnh) được sử dụng đồng bộ trong du lịch, đầu tư, văn hóa, đối ngoại.

Trên nền đó là một chiến lược ngoại giao văn hóa chủ động như đăng cai sự kiện quốc tế, tham gia mạng lưới đô thị toàn cầu, tổ chức tuần lễ văn hóa TPHCM ở các thủ đô, mời đoàn nghệ thuật, học giả, nhà đầu tư quốc tế đến trải nghiệm thành phố. Các nền tảng số, mạng xã hội, KOL, vlogger du lịch cần được sử dụng khéo léo để tạo “làn sóng nội dung” về TPHCM trong không gian số.

Đặc biệt, truyền thông phải giúp mỗi người dân nhận ra mình là một “đại sứ văn hóa”, từ cách ứng xử, giữ gìn không gian công cộng đến việc kể câu chuyện về thành phố với bạn bè quốc tế. Khi cộng đồng cùng cảm thấy tự hào và có trách nhiệm với hình ảnh chung, thương hiệu văn hóa TPHCM sẽ có nền tảng sâu và bền.

“Văn hóa còn thì dân tộc còn”

“Văn hóa còn thì dân tộc còn” - lời nhắc của tiền nhân chưa bao giờ mang ý nghĩa thời sự như lúc này, khi TPHCM bước vào giai đoạn định vị mình trong mạng lưới đô thị toàn cầu. Với một thành phố năng động, rộng mở và luôn khao khát vươn lên, văn hóa không chỉ là ký ức, là bản sắc, mà còn là nguồn lực mềm mạnh mẽ để tạo nên lợi thế cạnh tranh khác biệt.

TPHCM đang sở hữu một không gian văn hóa đa tầng, sống động, từ di sản kiến trúc, nghệ thuật truyền thống đến công nghiệp sáng tạo, điện ảnh, thời trang, từ đời sống học thuật - nghiên cứu đến lối sống đô thị phóng khoáng rất “Sài Gòn”. Tất cả đang hội tụ thành một hệ sinh thái văn hóa hiếm có, vừa giàu chiều sâu lịch sử, vừa tràn đầy năng lượng đổi mới. Chính sự giao thoa này tạo nên sức hấp dẫn khó trộn lẫn của một thành phố đủ mạnh để dẫn dắt, đủ mềm để lan tỏa.

Trong bối cảnh toàn cầu, những đô thị thành công đều biết tận dụng văn hóa. TPHCM hoàn toàn có thể viết nên câu chuyện của riêng mình. Chúng ta không cần sao chép thế giới, chúng ta chỉ cần làm sâu sắc hơn những giá trị trong DNA của mình: phóng khoáng, hiện đại, nhân văn và luôn đổi mới. Đó chính là chất liệu để TPHCM bứt phá.

Tầm nhìn đến 2045 mở ra một viễn cảnh đáng kỳ vọng khi TPHCM trở thành điểm đến hàng đầu của du lịch văn hóa, trung tâm sáng tạo trẻ của khu vực, đô thị có bản sắc rõ nét và đời sống tinh thần phong phú. Một thành phố nơi mỗi công trình, mỗi lễ hội, mỗi sản phẩm văn hóa đều kể một câu chuyện, nơi sức mạnh mềm trở thành động lực phát triển mới, nơi mỗi công dân đều là “đại sứ văn hóa” bằng chính cuộc sống thường ngày.

Con đường để chạm tới tương lai đó đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, sự đồng lòng của cộng đồng và khát vọng vươn lên của cả hệ thống. Khi tất cả các mảnh ghép văn hóa được kết nối như một bản giao hưởng lớn, TPHCM sẽ cất lên giai điệu riêng của mình trên sân khấu thế giới.

Và khi giai điệu ấy vang xa, chúng ta có thể tự hào nói rằng: TPHCM đã trở thành một điểm nổi bật trên bản đồ toàn cầu không chỉ bằng tốc độ tăng trưởng, mà bằng bản sắc văn hóa có một không hai.

(*) Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TPHCM

ThS. Huỳnh Hồ Đại Nghĩa (*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/sau-chieu-khong-gian-phat-trien-cua-tphcm-khong-gian-van-hoa-suc-manh-mem-va-ban-sac-de-dinh-vi-tphcm-trong-mang-luoi-do-thi-toan-cau/