Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường - Nhìn từ thực tế Tây Nguyên
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng xác định 'quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu' là trụ cột phát triển bền vững. Với Tây Nguyên, đây là yêu cầu cấp bách, gắn với an ninh sinh thái của cả khu vực.
Tại Tây Nguyên, những ngày giữa tháng 10, tuyến đường dẫn vào trạm biến áp 500kV Ia Ly ở Gia Lai bị sạt lở nghiêm trọng, kéo dài hơn 300 mét. Đất đá vùi lấp, mặt đường đứt gãy, hàng chục hộ dân phải di dời khẩn cấp. Đáng nói là sạt lở ở khu vực này đã xảy ra từ năm 2022, trở nên nghiêm trọng từ tháng 9/2025, nhưng chỉ đến tháng 10, khi dân mất nhà, mất tài sản, bị đe dọa tính mạng, việc di dời mới trở nên gấp rút. Tương tự, ở vùng Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, những vụ sạt lở năm 2023 đã không được kịp thời rút kinh nghiệm, để đến 2024 đã xảy ra sạt lở chết người, trên cùng khu vực cảnh báo nguy hiểm. Sang đến năm 2025, hàng trăm điểm nguy cơ cao vẫn còn treo lơ lửng trên đầu người dân vùng núi.
Bà Châu Hàng Dung, người dân xã Đam Rông, chia sẻ: “Chính quyền cần có biện pháp tích cực hơn để di dời bà con kịp thời và xử lý triệt để những khu vực có nguy cơ sạt lở cao, để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản cho người dân”.

Tuyến đường dẫn vào trạm biến áp 500kV Ia Ly ở Gia Lai bị sạt lở nghiêm trọng, hàng chục hộ dân phải di dời khẩn cấp.
Sạt lở ở Lâm Đồng và Gia Lai cho thấy không chỉ có nguyên nhân từ tự nhiên mà còn từ phía con người. Các khu vực dễ tổn thương bởi sạt lở, trước đó đều có san, múc, xây dựng. Từ thực tiễn này, có thể thấy yêu cầu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV về “hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách, quy hoạch quản lý tài nguyên và chủ động ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu” là hết sức xác đáng. Và sự chủ động ấy cần bắt đầu từ khâu dự báo, không chỉ dự báo thời tiết, biến đổi khí hậu mà dự báo cả tác động môi trường ở các công trình, dự án.
Theo ông Nguyễn Hoài Dương, nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường), dự báo đúng sẽ giúp ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu tốt hơn: “Chúng ta phải chủ động từ công tác dự báo, rà soát các công trình có nguy cơ sạt lở, khắc phục, sửa chữa kịp thời. Phải coi việc ‘sống chung với thiên tai’ là một phương thức phát triển, nghĩa là lựa chọn cây trồng phù hợp, sử dụng nước tiết kiệm, ứng dụng công nghệ cao để thích ứng với điều kiện tự nhiên”.

Diện tích rừng Tây Nguyên ngày càng suy giảm trong khi nhân lực bảo vệ rừng ngày càng thiếu.
Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị, trình Đại hội Đảng Lần thứ XIV, nhiệm vụ ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là hệ sinh thái rừng, cũng đã được đặt ra. Ở khu vực Tây Nguyên, nếu sạt lở là nguy cơ trước mắt, thì mất rừng là nguyên nhân sâu xa. Hàng trăm nghìn hec-ta rừng bị lấn chiếm kéo dài suốt hai thập kỷ. Trong khi đó, lực lượng kiểm lâm ngày càng mỏng, kiểm lâm viên xin nghỉ việc ngày càng nhiều, còn các ngành đào tạo lâm nghiệp mỗi năm lại thêm ít thí sinh đăng ký dự thi.
Ông Nguyễn Quốc Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk cho rằng, kể cả khi có cơ chế, chính sách tốt để bảo vệ rừng, ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, cũng phải có đủ nhân sự để thực thi. Các cán bộ, nhân viên ngành lâm nghiệp là nhân lực ở tuyến đầu trong công tác này, giúp việc xử lý có hiệu quả vi phạm pháp luật về tài nguyên, môi trường rừng. Vì thế, chỉ khi cải thiện được điều kiện làm việc, thu hút được nhân lực bảo vệ và phát triển rừng, các chỉ tiêu nhiệm vụ về môi trường mới có thể hoàn thành.
“Hiện việc thiếu hụt nhân lực vẫn là vấn đề lớn. Chúng tôi phải điều động, tăng cường giữa các vùng, động viên anh em cố gắng, nhưng về lâu dài phải có chính sách đãi ngộ phù hợp thì mới giữ được người.”
Đối với phương hướng “phát triển lành mạnh thị trường năng lượng, khoáng sản và tín chỉ carbon”, được nêu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị, Tây Nguyên đã có những bước đi tiên phong. Tại Đắk Lắk, ngoài các thí điểm đã thành công về canh tác lúa netzero carbon, còn có chương trình “Cảnh quan bền vững”, được triển khai trên hơn 23.000 hec-ta cà phê ở Krông Năng và Cư M’gar. Tại đây, nông dân được hướng dẫn canh tác giảm phát thải, tăng năng suất, và có thể tham gia thị trường carbon trong tương lai.
Tiến sĩ Phạm Công Trí, chuyên gia về cảnh quan bền vững, nhận xét: “Đắk Lắk có nhiều lợi thế để tham gia thị trường tín chỉ carbon. Địa phương có đội ngũ nghiên cứu mạnh, rừng và nông nghiệp xen kẽ rất thuận lợi để gắn kinh tế với mục tiêu giảm phát thải”.
Tây Nguyên là vùng đầu nguồn của các lưu vực lớn đổ ra miền Trung và Đông Nam Bộ. Vì vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, cần có cơ chế phối hợp liên vùng về quản lý tài nguyên nước và môi trường, để chiến lược quốc gia thực sự đi vào thực tiễn từng địa phương. Tiến sĩ Trần Ngọc Thanh, Viện trưởng Viện nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Nguyên , nêu ý kiến: “Gắn phục hồi rừng với du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái sẽ tạo ra lợi ích thiết thực cho người dân. Nhiều nước đã làm thành công. Nếu mình làm tốt, Tây Nguyên sẽ vừa giữ được rừng, vừa phát triển sinh kế – một hướng đi bền vững”.

Đại diện nông dân các tỉnh Tây Nguyên thăm mô hình cảnh quan cà phê trong vùng Dự án cà phê bền vững.
Từ thực tiễn Tây Nguyên, có thể khẳng định, Mục IX của Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV đã đặt đúng trọng tâm và hướng đi. Nhưng để chủ trương lớn đó dễ đi vào thực tiễn, cần sớm cụ thể hóa thành cơ chế phối hợp liên vùng về tài nguyên và ứng phó thiên tai, chính sách đặc thù thu hút, giữ chân lực lượng bảo vệ rừng, hành lang pháp lý và nguồn vốn khởi động thị trường tín chỉ carbon và phát triển hệ thống giám sát môi trường, cảnh báo sạt lở, hạn hán.
Khi phát triển hài hòa với thiên nhiên trở thành lựa chọn của toàn xã hội, khi kiểm soát tài nguyên và giảm phát thải được coi là trách nhiệm chính trị của mỗi cấp, mỗi ngành, thì mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 – như Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV đã đề ra – sẽ trở thành hiện thực sống động trên những vùng đất như Tây Nguyên.












