Nón làng Chuông - Di sản 'sống' trên những tầng lá cọ
Nằm yên bình bên dòng sông Đáy, cách trung tâm Hà Nội hơn 30km, làng Chuông (xã Thanh Oai, Hà Nội) từ lâu đã trở thành biểu tượng của nghệ thuật nón lá Việt Nam. Với lịch sử lâu đời, nghề làm nón tại đây không chỉ là nghề truyền thống mà còn là niềm tự hào văn hóa và nguồn thu kinh tế quan trọng cho người dân địa phương.
Hồn làng trong từng chiếc nón
Theo nhiều tư liệu dân gian, nghề làm nón tại làng Chuông đã xuất hiện từ lâu đời, có thể đã hơn nghìn năm tuổi. Nghệ nhân Lê Văn Tuy - người gắn bó với nghề hơn nửa thế kỷ, cho biết: “Nghề này của làng thì xưa lắm rồi. Ông bà để lại cho cha cho chú, rồi truyền xuống chúng tôi. Nhiều nơi học theo, nhưng cái hồn, cái dáng của nón Chuông thì chỉ ở đây mới có.”

Nghệ nhân Lê Văn Tuy khâu nón tại Triển lãm các sản phẩm OCOP thủ công mỹ nghệ và làng nghề, xã Thanh Oai.
Câu nói ấy như khẳng định rằng, chiếc nón nơi đây không đơn thuần là vật dụng che nắng che mưa, mà là một biểu tượng văn hóa, kết tinh sự khéo léo, tinh tế và sáng tạo của người Việt.
Một trong những “chất” tạo nên danh tiếng của nón Chuông chính là nguyên liệu. Lá cọ được chọn phải mềm dẻo, bền, sắc xanh ngà tự nhiên, có độ phóng giúp nón tròn và chắc. Chị Lưu Thị Huệ - người đã theo nghề hơn 40 năm, chia sẻ bằng giọng chân chất: “Muốn làm được một chiếc nón đẹp thì trước hết phải kiếm được lá thật ưng. Lá không được non quá, cũng không được già quá. Nhiều khi chọn lá còn vất hơn cả lúc ngồi khâu nón.”

Những chiếc nón tròn trịa dưới bàn tay kỳ cựu của chị Lưu Thị Huệ. (Ảnh: Xuân Lai)
Ngày trước, nguyên liệu đều có ở làng, nhưng vài năm gần đây, do biến đổi khí hậu, làng phải lấy lá non từ các tỉnh Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An. Việc vận chuyển xa khiến giá nguyên liệu tăng, tạo thách thức không nhỏ đối với các nghệ nhân.
Kỹ thuật làm nón Chuông là một nghệ thuật tinh xảo, kết hợp giữa bàn tay khéo léo và kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác. Một chiếc nón trải qua 6 công đoạn: chẻ nan, lên vòng, quay nón, thắt nón, khâu nón và hoàn thiện. Nếu thêm lớp vải lụa để phù hợp thị hiếu du lịch và thời trang, công đoạn tăng lên thành 7.



Mỗi công đoạn làm nón đều đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo của nghệ nhân. (Ảnh: Xuân Lai)
Trước khi bắt đầu khâu, lá cọ phải được hong khô, rồi bọc bằng quỳnh và sáp ong để giữ độ mềm. Xếp ba lớp lá - hai lớp ngoài và lớp lá bò ở giữa rồi mới khâu từng đường. Mỗi tầng, mỗi mũi kim phải đều tay, lệch một chút là cả chiếc nón sẽ bị hỏng.

Bàn tay khéo léo của Nghệ nhân Lê Văn Tuy thoăn thoắt đan nón. (Ảnh: Xuân Lai)
Quan sát một nghệ nhân đang khâu nón, người ta dễ bị cuốn hút bởi sự tập trung tỉ mỉ trong từng thao tác. Bàn tay thoăn thoắt đưa kim, sợi cước chạy đều tăm tắp trên nền lá trắng. Đó là nhịp điệu của lao động tĩnh lặng nhưng đầy say mê. Mỗi chiếc nón hoàn thiện không chỉ là vài giờ làm việc, mà còn là tình yêu nghề và ký ức của biết bao ngày tháng gắn bó.
Giữ nghề, giữ hồn làng giữa nhịp sống hiện đại
Không chỉ mang giá trị văn hóa, nón Chuông ngày nay còn trở thành nguồn thu quan trọng cho người dân. Nếu trước đây thu nhập từ nghề còn thấp, thì hiện nay đã tăng gấp nhiều lần so với thập niên 1990. Nhiều hộ gia đình sống ổn định nhờ nghề làm nón, và sản phẩm của làng không chỉ phục vụ trong nước mà còn xuất khẩu sang Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc… Một số nghệ nhân còn thiết kế mẫu nón đạt OCOP 4 sao, góp mặt trong các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước.


Khách du lịch đến tham quan và tìm hiểu sản phẩm nón làng Chuông. (Ảnh: Xuân Lai)
Sự đổi mới còn đến từ cách quảng bá. Làng Chuông ngày càng được biết đến rộng rãi nhờ mạng xã hội, các kênh thương mại điện tử và các lớp trải nghiệm làm nón cho du khách. Nghệ nhân Lê Văn Tuy hào hứng nói: “Thế hệ trẻ giúp nghề đổi mới. Chúng tôi vẽ, thêu, thiết kế mẫu mới, rồi quảng bá online. Nón Chuông giờ không chỉ để đội mà còn là quà tặng, đồ lưu niệm.”
Dẫu vậy, nghề nón Chuông vẫn gặp nhiều khó khăn. Lực lượng trẻ theo nghề ngày càng ít, vì phần lớn con cháu trong làng chọn học tập và làm việc ở những ngành nghề khác ổn định hơn. Chị Huệ trải lòng: “Giờ chủ yếu người lớn làm là chính. Thanh niên thì đi học, đi làm công ty. Có đứa cuối tuần phụ bố mẹ, nhưng không nhiều.”
Thêm vào đó là vấn đề nguyên liệu khan hiếm, cùng sức cạnh tranh của các ngành hiện đại khiến nghề truyền thống đứng trước nguy cơ mai một nếu không có hướng đi vững chắc.




Những chiếc nón sinh động được tạo nên từ đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân làng Chuông. (Ảnh: Xuân Lai)
Để bảo tồn làng nghề, địa phương đã phát triển du lịch trải nghiệm - một hướng đi nhiều tiềm năng. Làng Chuông tổ chức những phiên chợ nón độc đáo, mở cửa cho du khách tham quan, xem nghệ nhân trình diễn và tự tay thử làm nón. Du khách rất thích thú khi được chọn lá, lên khung rồi khâu những đường kim đầu tiên dưới sự hướng dẫn của nghệ nhân.
Nói về hướng phát triển của làng nghề, ông Vũ Quỳnh - Chủ tịch UBND xã Thanh Oai chia sẻ: “Giữ nghề không chỉ là lưu giữ một phần di sản của quê hương, mà còn là mở ra sinh kế cho người dân. Chúng tôi phối hợp với doanh nghiệp du lịch, hỗ trợ nghệ nhân mở lớp truyền nghề, quảng bá sản phẩm OCOP ‘Nón làng Chuông’, vừa giữ hồn quê, vừa tạo sinh kế bền vững.”
Nhìn những chiếc nón Chuông tròn trịa, trắng sáng, ta thấy không chỉ là vẻ đẹp giản dị mà còn là tinh thần bền bỉ và sáng tạo của người Việt. Bà Lưu Thị Lan - người gắn đời mình với nghề nón làng Chuông, tự hào nói: “Nghề nón gắn với tổ tiên chúng tôi. Con cháu vẫn phụ giúp, vẫn giữ nghề. Thế là tôi yên tâm rồi.”

Bà Lưu Thị Lan chia sẻ cùng phóng viên những câu chuyện làm nón Chuông.
Trải qua hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm, nón Chuông vẫn đứng vững trước bao đổi thay. Giản dị mà tinh tế, gần gũi mà giàu ý nghĩa, chiếc nón ấy là nhịp nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và đổi mới. Như lời nhắn nhủ của nghệ nhân Lê Văn Tuy: “Không có nghề nào quay lưng với mình. Yêu nghề thì nghề sẽ nuôi mình.”
Và chính nhờ những bàn tay tỉ mỉ ở làng Chuông, từ nghệ nhân kỳ cựu đến lớp trẻ mới vào nghề, nghề nón vẫn tiếp tục tỏa sáng, góp phần giữ gìn bản sắc Việt Nam trong nhịp sống hiện đại.
“Bài viết có sự phối hợp của Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội”.
Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/non-lang-chuong-di-san-song-tren-nhung-tang-la-co.html












