Những ngọn 'bút thép' giữa chiến trường khốc liệt
Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt tại chiến trường miền Nam, bên cạnh những chiến sĩ xung trận còn có một lực lượng đặc biệt không mang quân hàm, nhưng luôn có mặt nơi tuyến đầu. Đó là những người lính - phóng viên Thông tấn xã Giải phóng.

Phóng viên TTXGP tác nghiệp tại các chiến trường ác liệt. Ảnh tư liệu TTXVN
Họ tác nghiệp dưới làn bom đạn, giữa làn ranh của sự sống để chuyển về hậu phương những bản tin nóng hổi, những hình ảnh chân thực nhất về cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Những câu chuyện thời “hoa lửa” của họ không chỉ là ký ức hào hùng, mà còn là chứng tích sống động về sự hy sinh thầm lặng của những người làm báo nơi chiến trường.
Tin, bài quan trọng hơn cả mạng sống
Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP) là “hiện tượng” hiếm có trong lịch sử báo chí thế giới. Một cơ quan thông tấn ra đời, trưởng thành và phát triển giữa lòng cuộc chiến, dưới làn mưa bom bão đạn. Ở nơi đó, để những dòng tin không bao giờ tắt, dù phải đánh đổi bằng máu và cả tính mạng, những chiến sĩ - nhà báo Thông tấn vẫn sẵn sàng.
Nhà báo Nguyễn Thanh Bền, người hơn 35 năm gắn bó với TTXGP đã sống và tác nghiệp suốt 11 năm tại chiến khu. Ông không chỉ là người cầm bút, mà còn là một người lính thực thụ khi có đến 2/3 thời gian phải lo “tồn tại”, từ đào hầm, đào giếng, làm ruộng, tải gạo, cho đến... cầm súng khi cần. Thời gian dành cho việc viết tin, chụp ảnh và quay máy phát điện để truyền tin về chỉ chiếm 1/3 quỹ thời gian, nhưng lại là phần việc nặng nhọc nhất, khốc liệt nhất.
“Khi cái chết cận kề từng phút, chúng tôi vẫn đặt nhiệm vụ phát tin lên trên cả sinh mạng. Bản tin chiến thắng phải được gửi đi trong ngày, nếu không sẽ đánh mất thời cơ tuyên truyền, ảnh hưởng đến tinh thần toàn chiến tuyến. Đó là mệnh lệnh không lời, nhưng in đậm trong tim mỗi người làm báo”, nhà báo Thanh Bền chia sẻ.
Nhà báo Thanh Bền cho biết, những năm 60 - 70, đơn vị đã có tám lần dời căn cứ, từ Dương Minh Châu, Mã Đà, sang Kompong Chàm rồi quay lại Tây Ninh vì địch bao vây, đánh phá ác liệt vào căn cứ. Khi ấy, đội ngũ phóng viên chiến trường phải cõng cả máy phát điện nặng hàng tạ, điện đài, giấy in, vật dụng tác nghiệp… vượt rừng, băng suối. Vất vả nhất là bộ phận điện báo, những người gánh vác “dòng điện không bao giờ tắt”, bởi chỉ khi tín hiệu được truyền đi, bản tin mới thực sự “sống”.

Ông Đoàn Văn Thiều và ông Nguyễn Thanh Bền gặp lại nhau trong những ngày kỉ niệm 30/4 lịch sử.
Tổ công tác của nhà báo Thanh Bền cũng là nhóm phóng viên đầu tiên theo đoàn Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Vượt qua vòng vây địch ở Bình Mỹ (Củ Chi), họ vào đến Sài Gòn đúng chiều ngày 30/4/1975 và ngay tối đó đã phát đi bản tin “Sài Gòn sau vài giờ giải phóng”. Sáng hôm sau, bản tin “Sài Gòn, 1 tháng 5” cũng tiếp tục được truyền về hậu phương. Những dòng tin lịch sử ấy, giờ đây đã trở thành tư liệu quý giá, bởi chúng được viết ra không phải dưới làn đạn hay trong đêm tối nữa, mà bằng ánh sáng của sự tự do, độc lập dân tộc.
Sống sót như một phép màu
Tại mặt trận Trị Thiên - Huế, nơi chứng kiến những trận đánh ác liệt nhất, các phóng viên TTXGP cũng đã viết nên những câu chuyện không thể nào quên. Lực lượng TTXGP tại đây được thành lập từ năm 1966, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Trị Thiên; đã đóng góp hàng ngàn tin, bài, ảnh quý giá về những chiến dịch lớn, như Mậu Thân 1968, Đường 9 Nam Lào, Cuộc tổng tiến công năm 1972… Nhà báo Nghiêm Sỹ Thái (Thông tấn xã Việt Nam), từng là Trưởng Phân xã Thừa Thiên - Huế, vẫn rùng mình khi nhắc đến những ngày ác liệt: “Ở căn cứ cũng như xuống đồng bằng đều nguy hiểm. Pháo địch bắn suốt ngày đêm, rồi sốt rét, đói khát, thương vong là chuyện xảy ra như cơm bữa. Cái chết luôn rình rập, chỉ một bước chân sai là có thể mất mạng”.
Nhưng giữa nguy hiểm, nhà báo Nghiêm Sỹ Thái và đồng đội vẫn không rời máy ảnh, không buông bút. Có lần, ông chụp được tấm ảnh tàu chiến địch bốc cháy trên sông Hương, chỉ với một ống kính bình thường nhưng khoảng cách gần đến mức “con tàu kín cả khung hình”. Lần khác, ông bị sốt rét nặng suýt chết, nhưng ông vẫn gượng dậy để tiếp tục công việc. “Chúng tôi không nghĩ mình là anh hùng. Chúng tôi chỉ làm đúng bổn phận của người cầm bút giữa chiến tranh: Phải có tin, phải có ảnh, phải truyền đi được sự thật về Tổng xã để người dân biết được những thông tin nóng hổi tại chiến trường”, nhà báo Nghiêm Sỹ Thái chia sẻ.
Có thể nói, trong suốt những năm tháng tác nghiệp dưới làn mưa bom đạn với cái chết luôn cận kề, nhà báo Nghiêm Sỹ Thái cùng các đồng nghiệp - đồng đội tại TTXGP vẫn bám trụ chiến trường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thông tin, đóng góp hàng ngàn tin bài cho dòng chảy tin tức trong thời kỳ kháng chiến tại chiến trường Bình Trị Thiên.

Ông Nghiêm Sỹ Thái phát biểu tại lễ trao lại cuốn nhật ký bị thất lạc khi là phóng viên chiến trường ở mặt trận Bình Trị Thiên.
Người lo từng hạt gạo, ngọn lửa cho trên 300 người
Trong khói lửa chiến tranh, phía sau mỗi bản tin là cả một hệ thống vận hành bền bỉ trong điều kiện thiếu thốn tột cùng, nhưng vẫn đảm bảo “dòng tin chảy mãi”. Một trong những người đã âm thầm giữ “hậu phương” cho TTXGP là ông Đoàn Văn Thiều (còn gọi là Tư Thiều), nguyên Trưởng đài thu tin địa phương, Phó Văn phòng TTXGP.
Ông Tư Thiều nhớ lại, từ năm 1961, ông bắt đầu làm điện báo viên, rồi gắn bó suốt hành trình của TTXGP cho tới ngày giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ của ông không chỉ là bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, mà còn lo toàn bộ hậu cần: Cơm, áo, gạo, tiền, pin, thuốc men… cho trên 300 cán bộ, phóng viên trong rừng. “Có khi chỉ có 5 - 6 người trong một đội giao liên, nhưng phải phục vụ mấy trăm người sống rải rác trong rừng sâu. Để có thể phát được dòng tin đầu tiên trong căn cứ về Tổng xã, nhóm phóng viên điện báo chúng tôi phải đẽo cây làm cột ăng-ten, tự gõ ký tự để liên lạc, nấu cơm, tự canh gác, cách ly an toàn khi có chiến sự”, ông Tư Thiều kể lại.
Ông vẫn nhớ như in về lần đầu phát sóng bản tin từ căn cứ. “Chúng tôi vui quá, không biết làm gì, nấu ngay một nồi chè để ăn mừng. Tin báo đầu tiên được phát đi không chỉ là chiến thắng của người làm báo, mà là sự khẳng định giữa rừng sâu ta vẫn có tiếng nói, vẫn có thông tin để tiếp sức cho tiền tuyến và hậu phương”.
Sau này, ông Tư Thiều được đồng chí Trần Bạch Đằng trực tiếp rút về để đào tạo nhân lực cho công tác điện báo, một việc khó khăn không kém gì huấn luyện chiến sĩ. “Đào tạo một phóng viên đã khó, đào tạo một người làm hậu cần, làm điện báo, giao liên giữa chiến trường lại càng khó hơn. Những người lính Thông tấn vừa đảm bảo cuộc sống vừa đảm bảo vận hành ‘để thông tin chảy mãi’ trong suốt cuộc chiến khốc liệt tại chiến trường miền Nam”, ông Tư Thiều cho biết.

Ông Đoàn Văn Thiều đang giới thiệu với ông Nguyễn Thanh Bền, nguyên nhà báo TTXGP và ông Trần Tràng Dương, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thông tấn xã Việt Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Thông tấn xã Việt Nam khu vực phía Nam về một di tích sử cách mạng ở trong vườn nhà ông.
Theo ông Đoàn Văn Thiều, TTXGP đã đi từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh. Họ vừa chiến đấu, vừa xây dựng đội ngũ, vừa làm nhiệm vụ thông tin. Thời kỳ đầu chỉ là một đơn vị kỹ thuật truyền tin với khoảng 10 người, đến cuối năm 1974, quân số của TTXGP đã lên đến 441 người, với đầy đủ các phòng, ban tin, ảnh, văn phòng, kỹ thuật, điện báo. Hệ thống kỹ thuật của TTXGP đã thu, phát được tin, ảnh nhanh nhất, chất lượng cao nhất trong khối thông tin báo chí cách mạng tại chiến trường miền Nam.
Theo các nhà báo chiến trường tại TTXVN Việt Nam, trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhiều phóng viên, kỹ thuật viên, điện báo viên của TTXGP đã vĩnh viễn nằm lại trên những cánh rừng. Hài cốt của một số nhà báo - chiến sĩ TTXGP đến nay vẫn chưa tìm thấy. Hàng chục người khác cũng đã để lại một phần máu thịt của mình trên chiến trường.