Nhà thờ cổ H'Bâu dưới chân núi lửa Chư Đăng Ya: Di sản văn hóa độc đáo của Gia Lai

Dưới chân ngọn núi lửa Chư Đăng Ya hùng vĩ, nổi tiếng mỗi độ hoa dã quỳ nở vàng rực cả triền núi, có một phế tích cổ kính vẫn lặng lẽ tồn tại hơn trăm năm qua: Nhà thờ cổ H'Bâu. Bị hoang phế qua thời gian và chiến tranh, nhưng tháp chuông rêu phong cùng một phần mặt tiền còn sót lại của ngôi thánh đường vẫn là điểm dừng chân khiến bao du khách phải ngắm nhìn, chiêm nghiệm.

Nhà thờ cổ H’Bâu thuộc làng Xóa, xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai. Đây là công trình kiến trúc Công giáo đầu tiên trên địa bàn tỉnh Gia Lai cũ, gắn liền với hành trình truyền giáo và định cư của những lưu dân đầu thế kỷ XX.

Cận cảnh nhà thờ cổ H’Bâu: phía trên là tháp chuông, phía dưới là cổng chính; trên tường vẫn còn chi chít vết đạn thời chiến. Ảnh: Xuân Hiền

Nhà thờ cổ H’Bâu được xây dựng bằng gạch và xi măng - những vật liệu xa xỉ đối với vùng đất hoang sơ Tây Nguyên đầu thế kỷ trước. Chiến tranh, bom đạn và sự bào mòn của thời gian đã khiến công trình không còn nguyên vẹn, song dáng dấp kiến trúc vẫn hiện rõ. Ngôi nhà thờ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách Gothic Pháp, với mái vòm nhọn, cửa sổ cao vút, và yếu tố kiến trúc nhà sàn bản địa Tây Nguyên, thể hiện ở bố cục không gian và cách kết nối với cảnh quan tự nhiên xung quanh. Đặc biệt, trước mặt tiền còn in dòng chữ Hán “Kỷ Dậu niên”. Câu hỏi lớn đặt ra: Nhà thờ được xây dựng vào năm nào? Các năm Kỷ Dậu gần đây gồm 1849, 1909 và 1969. Rõ ràng, năm 1849 không thể là mốc khởi dựng, bởi thời điểm đó vùng đất này chưa có dấu ấn Công giáo. Năm 1969 cũng không phù hợp, bởi công trình đã tồn tại từ lâu trước đó. Vậy chỉ còn lại năm Kỷ Dậu 1909.

Dựa vào chi tiết này, lâu nay nhiều phương tiện truyền thông và du khách đều mặc nhiên cho rằng nhà thờ H’Bâu được xây dựng vào năm 1909. Tuy nhiên, những cứ liệu lịch sử cho thấy nhận định này là không chính xác. Trong sách Thị xã Pleiku 60 năm đấu tranh và xây dựng (1930–1990) của Ban Thường vụ thị xã Pleiku, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994) có đoạn viết:

“Ở vùng phụ cận, nhóm người Kinh đầu tiên ở Tiên Sơn do các ông Nguyễn Quỹ, Hồ Tiếp, Lê Đức, Lê Lý... là dân gốc Bình Định lên Kon Tum ở làng Tân Hương. Sau các ông theo các giáo sĩ thừa sai qua truyền giáo ở vùng Hà Bầu, rồi mộ dân đến đây lập làng Tiên Sơn. Trước năm 1954, làng Tiên Sơn có 50 gia đình gồm 250 người.” (tr. 22).

Những cư dân tiên phong này chính là nhóm tín hữu đầu tiên có vai trò đặc biệt trong việc hình thành các họ đạo trên đất Gia Lai cũ.

Trong công trình Lịch sử Gia Lai từ nguồn gốc đến năm 1975 (TS. Nguyễn Thị Kim Vân chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, 2019), tư liệu càng được xác nhận rõ:

“Khu vực cư trú của nhóm địa phương Jrai Hơbâu là vùng Biển Hồ (nay thuộc Nam Chư Păh, bắc Pleiku) được các nhà truyền giáo sớm quan tâm. Năm 1905, nhân việc vùng người Jrai Hơbâu (bắc Pleiku) bị một trận dịch đậu mùa hoành hành dữ dội, những người dân ở đây đã cúng Yang (thần) nhưng vẫn không thoát khỏi tai họa. Giám mục Viallenton (Truyền) đã đưa linh mục thừa sai Nicolas (Cận) từ trung tâm truyền giáo Rơhai cùng các cộng sự đến chống dịch và truyền giáo...

Năm 1908, khi công việc ở vùng người Jrai Hơbâu tiến triển khá tốt thì linh mục Nicolas giao nhiệm sở này lại cho linh mục thừa sai trẻ Corompt (Hiển, vừa từ miền xuôi lên Bắc Tây Nguyên năm 1907), còn ông lên đường đến Plei Rơngol, cách đó khoảng 50km về phía tây nam xây dựng một họ đạo mới. Khi từ Kon Tum xuống vùng người Jrai Hơbâu, linh mục Corompt (Hiển) mang theo 7 gia đình người Việt theo đạo Công giáo từ làng Tân Hương. Người Jrai trong vùng gọi nhóm dân này là Yoăn Nel – tức người Việt ở vùng đất Nel (về sau nhóm dân này thành lập làng Tiên Sơn). Năm 1909 họ đạo Tiên Sơn được thành lập.” (tr. 506).

Dòng chữ Hán “Kỷ Dậu niên” trên mặt tiền nhà thờ cổ H’Bâu hiện đã mờ nhạt, khó nhận thấy rõ. Ảnh: Xuân Hiền

Dòng chữ Hán “Kỷ Dậu niên” trên mặt tiền nhà thờ cổ H’Bâu hiện đã mờ nhạt, khó nhận thấy rõ. Ảnh: Xuân Hiền

Như vậy, các giáo sĩ thừa sai bắt đầu truyền giáo ở khu vực Jrai H’Bâu từ năm 1905. Năm 1908, linh mục Corompt (Hiển) đã mang theo những gia đình tín hữu Việt đầu tiên xuống lập cư. Năm 1909, họ đạo Tiên Sơn ra đời, đây là họ đạo Công giáo đầu tiên của tỉnh Gia Lai cũ. Tuy nhiên, phế tích nhà thờ H’Bâu hiện nay có phải chính là công trình được dựng từ năm 1909 hay không? Tư liệu cho thấy điều đó không chính xác. Bởi vào năm 1909, số tín hữu còn ít ỏi, vật liệu xây dựng như gạch, xi măng phải chở từ Quy Nhơn lên bằng sức người, qua núi rừng hiểm trở. Linh mục Corompt (Hiển) vừa đến truyền giáo nơi này mới khoảng 1 năm. Rất khó có thể trong một thời gian ngắn hình thành một công trình kiên cố bằng gạch quy mô lớn như vậy.

Tài liệu của Giáo xứ Chư Đăng Ya đã cung cấp những thông tin vô cùng quý giá. Phần Lược sử Giáo xứ Hà Bầu đã đưa ra lời giải quan trọng: “Cha Corompt (Hiển), một vị thừa sai trẻ đến tiếp nối công việc của cha Nicolas. Nghe tin có linh mục ở Hà Bầu là người cứu thoát và giúp đỡ nô lệ, bệnh nhân… nhiều người đã tìm đến làng Hà Bầu. Từ làng Kông Krối vùng An Khê, vùng Pleiku, vùng Đak Đoa, vùng Kon Tum đến xin nhập làng Hà Bầu đều được cha Corompt lo toan giúp đỡ từ nơi ăn chốn ở, thuốc men, cưu mang, bảo bọc...

Năm 1909, cha Corompt đã cho xây dựng cư sở (nhà xứ) và nhà thờ Hà Bầu. Ngôi nhà thờ Hà Bầu được xây dựng lại có tháp gạch vào những năm 1920 - 1930, trải qua các thời kỳ chiến tranh, đặc biệt là Mậu Thân 1968, đến năm 1972, nhà thờ bị trúng bom đạn, hiện chỉ còn phế tích là một phần mặt tiền và tháp chuông.”

Từ đó có thể khẳng định: Nhà thờ H’Bâu lần đầu tiên được dựng năm Kỷ Dậu 1909, nhưng công trình hiện còn là phiên bản xây dựng lại trong khoảng thập niên 1920 - 1930. Tấm biển “Kỷ Dậu niên” chính là sự ghi nhớ năm thành lập họ đạo và ngôi nhà thờ đầu tiên, chứ không phản ánh niên đại của công trình hiện hữu. Nhận định này giúp tránh sự ngộ nhận và mang lại sự minh định khoa học, chính xác hơn về giá trị di sản.

Không chỉ mang giá trị lịch sử, nhà thờ H’Bâu còn là một tuyệt phẩm kiến trúc hiếm hoi. Phong cách Gothic du nhập từ Pháp với những cửa vòm nhọn, tháp chuông vươn cao, được hòa trộn với cấu trúc mở của kiến trúc bản địa Tây Nguyên. Nằm giữa không gian thiên nhiên hoang sơ, phía xa là Biển Hồ mênh mang và ngọn Chư Đăng Ya sừng sững, phế tích nhà thờ trở thành điểm nhấn đặc biệt trong bức tranh văn hóa – cảnh quan Gia Lai. Khi sương sớm bảng lảng phủ xuống hay chiều tà ánh hoàng hôn nhuộm vàng tháp chuông rêu phong, nơi đây gợi cho con người nhiều liên tưởng về sự giao thoa Đông – Tây, quá khứ – hiện tại.

Bên trong nhà thờ cổ H’Bâu phủ rêu phong. Ảnh: Xuân Hiền

Ngày nay, dù chỉ còn lại phế tích, nhà thờ cổ H’Bâu vẫn là minh chứng sống động cho quá trình lịch sử hình thành cộng đồng Công giáo tại Gia Lai, đồng thời là “chứng nhân” cho những đổi thay của đất và người Tây Nguyên hơn một thế kỷ qua. Trong mắt du khách, phế tích ấy mang vẻ đẹp u hoài, gợi nhớ một thời kỳ giao lưu văn hóa sôi động. Trong mắt các nhà nghiên cứu, đó là dữ liệu quý giá về kiến trúc, lịch sử truyền giáo và định cư. Còn với người dân địa phương, đây là ký ức gắn liền với bao thế hệ, là niềm tự hào về một công trình văn hóa – tôn giáo từng in dấu trên quê hương mình.

Nếu được trùng tu, tôn tạo hợp lý, kết nối cùng không gian du lịch Biển Hồ, núi lửa Chư Đăng Ya, nhà thờ cổ H’Bâu hoàn toàn có thể trở thành điểm đến độc đáo trong hành trình khám phá Gia Lai. Nơi đây không chỉ là phế tích lặng im, mà có thể là “nhân chứng” kể chuyện về lịch sử, văn hóa và về khát vọng vươn lên của những con người đầu thế kỷ trước. Chính giá trị đó mới là nền tảng để bảo tồn và phát huy nhà thờ H’Bâu như một di sản văn hóa – lịch sử, góp phần làm giàu thêm bản sắc du lịch Gia Lai, thu hút du khách tìm về với miền đất đỏ bazan đầy nắng gió, để chiêm ngưỡng, để suy ngẫm và để trân trọng quá khứ.

Ngô Xuân Hiền

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/nha-tho-co-hbau-duoi-chan-nui-lua-chu-dang-ya-di-san-van-hoa-doc-dao-cua-gia-lai-a30094.html