Nghèo giữa vùng tre luồng... lớn nhất Việt Nam (Bài 2): 'Vắt kiệt' rừng vàng

Một trong những nguyên nhân khiến tre luồng Thanh Hóa có giá thấp và đầu ra bấp bênh là do chất lượng nguyên liệu này chưa cao. Đó chính là hệ quả của việc khai thác quá mức, khai thác luồng non không theo khuyến cáo cũng như không được thâm canh, chăm sóc khoa học.

Luồng tại xã Tân Phúc, huyện Lang Chánh (Thanh Hóa) vẫn được khai thác trong mùa măng. Ảnh: P.V

Rà soát mới nhất từ Sở Công Thương Thanh Hóa, Công ty TNHH Quốc Đại ở xã Hoằng Thịnh, huyện ven biển Hoằng Hóa chính là doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ lớn nhất xứ Thanh. Sản phẩm chính ở đây là các loại đèn lồng và nhiều hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tre luồng. Tuy nhiên có một nghịch lý là nhiều thời điểm, doanh nghiệp này phải nhập nguyên liệu từ Nghệ An và một số tỉnh khác, trong khi Thanh Hóa mới là “thủ phủ” tre luồng của cả nước. Nguyên nhân được phía công ty đưa ra là nhiều loại nan nứa, nan vầu của các đối tác tỉnh ngoài có độ dẻo và bền hơn.

Tuy chưa phải tất cả, nhưng tình trạng khai thác cây non, khai thác không đúng khoa học đang diễn ra tràn lan ở các vùng tre luồng Thanh Hóa. Ngành nông nghiệp và các huyện miền núi đã có nhiều khuyến cáo các chủ đồi rừng không khai thác các loài tre luồng vào mùa măng và luồng tuổi 1 - 2, nhưng đại đa số người trồng không quan tâm. Thậm chí, nhiều gia đình còn thích khai thác tre luồng vào mùa lên măng vì đây là thời điểm ít người khai thác nên dễ bán hơn.

Trên thực tế, sau những ngày đông khô hanh và lạnh giá, đến tiết xuân mát mẻ và những tháng mưa rừng sẽ kích thích cây luồng, cây nứa, câu vầu đâm chồi, trổ măng để sinh sôi. Theo đó, mùa măng của các loài tre luồng trồng ở miền Tây Thanh Hóa được xác định từ cuối mùa xuân đến giữa mùa mưa, tương đương từ tháng 4 đến hết tháng 10 hằng năm.

Liên tục các chuyến công tác về các huyện như: Bá Thước, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn... những tháng vừa qua, không khó để chúng tôi bắt gặp cảnh khai thác, tập kết, vận chuyển tre luồng nhộn nhịp ven các tuyến đường.

Những ngày đầu tháng 9 này, vẫn còn mùa măng, nhưng tại xã Tân Phúc (Lang Chánh), luồng vẫn được khai thác, tập kết khắp các thôn làng. Vừa bán được những đống luồng cho thương lái địa phương, ông Lê Ngọc Yền, thôn Sơn Thủy, xã Tân Phúc, hồ hởi: “5 ha luồng của gia đình tôi cho thu hoạch quanh năm nên cũng đỡ túng thiếu. Mùa măng vẫn khai thác bình thường, tuy nhiên, tôi vẫn để lại mỗi bụi vài cây già để dựa những cây non đỡ đổ. Hầu hết các hộ trồng luồng trong xã, trong huyện cũng vậy”.

Đồng bào các dân tộc ở miền Tây xứ Thanh nhiều đời vẫn phải gắn bó với tre luồng.

Trên địa bàn huyện Quan Hóa, mọi hoạt động khai thác tre luồng vẫn diễn ra bình thường trong nhiều tháng qua. Tại gần chục xã khi phóng viên vừa đi khảo sát, cứ có người thu mua là có người chặt luồng để bán. Các cơ sở sơ chế, sản xuất tăm hương, đũa ăn một lần ven sông Mã vẫn hoạt động quanh năm, thu mua luồng mọi thời điểm.

Với 3 ha luồng, gia đình chị Hà Thị Huyến ở bản Bút, xã Nam Xuân (Quan Hóa) vẫn tổ chức thu hoạch quanh năm, không kể mùa ra măng hay những tháng còn lại. “Cứ 1 - 2 tuần, gia đình chúng tôi lại tổ chức lên rừng luồng thu hoạch một lần, mỗi lần vài chục cây để chi tiêu, sinh hoạt. Rừng có nhiều luồng nhỏ, luồng cọc nên chủ yếu bán theo cân với giá chưa đầy 10.000 đồng/kg” - chị Huyến tâm sự.

Ông Hà Văn Mậu, chuyên viên phụ trách lâm nghiệp của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Quan Hóa, chia sẻ: “Chúng tôi đã liên tục khuyến cáo và tập huấn đến tận các xã, các thôn là không khai thác tre luồng vào mùa măng và khai thác luồng non. Bởi lẽ những cây 2 - 3 năm đang độ tuổi sinh sản nên ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của rừng tre luồng, vừa giảm sinh khối lại gây suy thoái. Hơn nữa, mùa măng mà khai thác đi những cây “mẹ”, khi cây con mới lớn bị thiếu các cây lâu năm làm chỗ dựa, rất dễ bị đổ gãy khi có mưa gió lớn, chưa nói bão tố, lốc xoáy khu vực miền núi”.

Đáng buồn thay khi những năm gần đây, luồng Quan Hóa nói riêng và các huyện miền núi xứ Thanh nói chung còn bị thu mua với giá rẻ mạt để... băm dăm. Một loài cây trồng đặc hữu, từng được coi là “vàng xanh” có thể dùng vào nhiều hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, nay được đánh giá ngang với... gỗ keo để băm nát bán làm nguyên liệu cho các nhà máy giấy trong nước (!?).

Cũng theo ông Hà Văn Mậu: “Luồng phải dài từ 11m trở lên, thân phải đạt từ 20 đến 25 vanh (chiều dài đo theo vòng tròn thân – PV) thì mới có thể bán cho hoạt động xây dựng hay làm nhà với giá khoảng 30 đến 40.000 đồng/cây. Phần lớn còn lại là luồng nhỏ, còi cọc thì bán cho các cơ sở sản xuất đũa, tăm hương, vàng mã và các cơ sở băm dăm với giá thời điểm cao mới được 1.000 đồng/kg”.

Các cơ sở chế biến tre luồng ở huyện Quan Hóa đa phần lạc hậu, sản xuất ra sản phẩm thô, giá trị thấp như đũa, tăm hương... Ảnh: P.V

Thực trạng tre luồng ngày càng suy thoái dẫn đến còi cọc, kém chất lượng đang diễn ra ở hầu khắp các huyện miền núi của tỉnh. Ngoài khai thác quá mức, khai thác luồng non và cả trong mùa măng, thì việc không được chăm bón, ít được thâm canh cải tạo được coi là nguyên nhân chính.

Cùng đồng hành với phóng viên đến các rừng luồng trong xã, ông Lê Văn Phúc, cán bộ phụ trách địa chính và nông nghiệp xã Tân Phúc (Lang Chánh), thẳng thắn: “Toàn xã có gần 2.500 ha luồng, nhưng nếu tính cộng dồn, đến nay mới có khoảng hơn 20% diện tích được hưởng hỗ trợ để phục tráng theo các dự án của tỉnh. Số còn lại đa phần để phát triển tự nhiên, nhiều diện tích luồng từ thời bao cấp đến nay vẫn thế. Do thiếu điều kiện kinh tế cũng như tập quán canh tác nhiều đời nay nên luồng cơ bản không được bón phân hay áp dụng các biện pháp kỹ thuật để thâm canh”.

Khảo sát từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thanh Hóa cho thấy, trên địa bàn toàn tỉnh đang có khoảng 46% diện tích luồng bị thoái hóa. Nguyên nhân là do nhiều hộ gia đình khai thác cả luồng non tuổi 1 và 2 - là cây chủ yếu sinh măng, làm giảm số lượng cây luồng/bụi. Cùng với đó là hiện tượng khai thác quá mức làm kiệt quệ rừng tre luồng. Mặt khác, hầu hết rừng tre luồng đã có là giống thuần loài, được khai thác liên tục trong nhiều năm, đến nay nhiều diện tích đã bộc lộ các nhược điểm như dịch sâu bệnh phát triển mạnh, năng suất và chất lượng giảm đi rõ rệt...

Tại huyện miền núi Bá Thước, diện tích tre luồng được duy trì những năm gần đây khoảng 11.000 ha, chiếm 1/5 tổng diện tích rừng và tương đương 1/7 diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Tre luồng tập trung nhiều nhất tại các xã: Thiết Ống, Văn Nho, Điền Trung, Thiết Kế, Ái Thượng, Điền Quang.

Khái quát bức tranh phát triển tre luồng của địa phương, ông Lê Quang Huy, Phó Chủ tịch UBND huyện Bá Thước, trải lòng: Bá Thước chính là trung tâm kết nối vùng nguyên liệu tre luồng với các huyện Quan Hóa, Quan Sơn và Lang Chánh. Cây luồng chính là nguồn thu nhập, là cuộc sống của nhiều hộ dân trong huyện. Tuy nhiên, luồng chủ yếu được trồng trên đồi cao, tập quán canh tác cũng như kỹ thuật khai thác của Nhân dân chưa hợp lý dẫn đến nhiều diện tích bị thoái hóa, chất lượng cây luồng bị suy giảm. Đó cũng là nguyên nhân giá trị cây luồng mang lại chưa cao, bình quân thu nhập từ 1 ha rừng luồng của huyện chỉ đạt hơn 10 triệu đồng mỗi năm.

Lê Đồng – Lê Hợi

Bài cuối: Loay hoay bài toán nâng cao giá trị.

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/kinh-te/ngheo-giua-vung-tre-luong-lon-nhat-viet-nam-bai-2-vat-kiet-rung-vang/196960.htm