Nên chuyển trường đại học địa phương qua mô hình đại học cộng đồng thứ thiệt
Đại học cộng đồng là một thiết chế định hướng ứng dụng, phục vụ trực tiếp nhu cầu học tập suốt đời và phát triển nguồn nhân lực của cộng đồng địa phương.
Bối cảnh và yêu cầu cấp thiết
Mô hình đại học cộng đồng (community college) đã được nhiều nước triển khai thành công trong hơn một thế kỷ, đặc biệt ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số quốc gia Bắc Âu. Đây là loại hình giáo dục đại học ngắn hạn, đa cấp, thực hành, định hướng nghề nghiệp, có học phí thấp, gắn chặt với thị trường lao động địa phương, và đặc biệt là phục vụ công bằng xã hội và phát triển cộng đồng bền vững.
Tại Việt Nam, sau hơn ba thập niên đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, song vẫn còn khoảng cách rõ rệt giữa các vùng, địa phương. Các trường đại học địa phương được thành lập trong hai thập niên qua chủ yếu theo mô hình đại học học thuật/hàn lâm hoặc đa ngành, không còn giữ được sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực ứng dụng cho tỉnh nhà.
Trước thực trạng đó, việc phát triển hệ thống đại học cộng đồng cấp tỉnh là một yêu cầu bức thiết. Đây không chỉ là một mô hình đào tạo nhân lực hiệu quả, linh hoạt, chi phí thấp, mà còn là một thiết chế văn hóa - giáo dục đóng vai trò gắn kết giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Mô hình đại học cộng đồng sẽ góp phần hiện thực hóa các mục tiêu lớn như: Tăng cường công bằng trong tiếp cận giáo dục đại học; Đáp ứng nhanh nhu cầu nhân lực của địa phương; Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tỉnh; Giảm áp lực cho các đại học lớn ở trung ương; Thúc đẩy tự chủ đại học gắn với trách nhiệm giải trình tại địa phương.
Khái niệm, đặc điểm và chức năng của đại học cộng đồng
Đại học cộng đồng là một thiết chế giáo dục đại học định hướng ứng dụng, phục vụ trực tiếp nhu cầu học tập suốt đời và phát triển nguồn nhân lực của cộng đồng địa phương. Đây là loại hình trường công lập cấp tỉnh, có quy mô nhỏ, linh hoạt, đào tạo đa trình độ từ sơ cấp, trung học nghề, cao đẳng đến cử nhân thực hành, và cung cấp các khóa ngắn hạn, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp, chuyển đổi nghề, khởi sự doanh nghiệp, học nghề cho nông dân và người lao động.

Ảnh minh họa: HUTECH
Đại học cộng đồng không nhắm tới nghiên cứu học thuật hay đào tạo sau đại học, mà chủ yếu phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tại chỗ, gắn với đặc thù từng tỉnh, từng vùng, đặt trọng tâm vào người học, doanh nghiệp địa phương và sự phát triển toàn diện của cộng đồng dân cư.
Đại học cộng đồng mang những đặc điểm nổi bật như:
Phạm vi hoạt động cấp tỉnh: Trường do tỉnh thành lập, hoạt động trong phạm vi một địa phương, không tổ chức liên kết đa tỉnh.
Định hướng ứng dụng – thực hành: Chương trình tập trung vào năng lực nghề nghiệp và kỹ năng thực tế, không chạy theo bằng cấp học thuật.
Tuyển sinh mở và linh hoạt: Không đặt nặng yêu cầu đầu vào. Người học có thể là học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, người lao động, nông dân, cán bộ xã/phường, doanh nghiệp nhỏ…
Chi phí thấp, cơ hội rộng mở: Mức học phí hợp lý, chính sách hỗ trợ mạnh, phù hợp với người học yếu thế, vùng khó khăn.
Liên kết chặt với doanh nghiệp và chính quyền địa phương: Tổ chức đào tạo theo đơn đặt hàng, thực học – thực làm.
Tự chủ và trách nhiệm xã hội cao: Mặc dù do tỉnh quản lý, trường vẫn được giao quyền tự chủ học thuật, nhân sự và tài chính trong khuôn khổ quy định, gắn với cơ chế giải trình rõ ràng.
Đại học cộng đồng có ba chức năng cốt lõi:
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại chỗ: Tổ chức các chương trình đào tạo có tính thực hành cao, đáp ứng nhu cầu nhân lực cụ thể của địa phương.
Hỗ trợ phát triển cộng đồng: Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, chuyển giao tri thức, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, khuyến nông – khuyến ngư – khuyến công – khuyến thương.
Tư vấn và nghiên cứu ứng dụng: Thực hiện nghiên cứu nhỏ phục vụ địa phương, cung cấp thông tin, tư vấn phát triển kinh tế - xã hội, lập quy hoạch nhân lực, hỗ trợ khởi nghiệp.
Thực trạng và những hạn chế của mô hình đại học địa phương hiện nay
Bối cảnh hình thành và xu hướng phát triển:
Sau khi đất nước thống nhất, để mở rộng cơ hội học tập và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, nhiều tỉnh thành ở Việt Nam đã thành lập các trường đại học địa phương. Mô hình này ban đầu có định hướng rõ ràng: đào tạo nhân lực cho tỉnh nhà, với quy mô vừa phải, nội dung gắn với thực tiễn địa phương. Trường Đại học Hồng Đức (Thanh Hóa) là một trong những mô hình tiên phong.
Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000, một loạt các trường địa phương được nâng cấp từ cao đẳng hoặc thành lập mới, phần lớn dưới sức ép tâm lý “có đại học riêng” của địa phương và động cơ mở rộng biên chế, đầu tư cơ sở vật chất từ ngân sách Trung ương.
Những vấn đề nổi cộm:
Dù được đặt tên là đại học, phần lớn các trường địa phương vẫn mang đặc điểm nặng tính hành chính và thiếu bản sắc học thuật. Các vấn đề chính gồm:
Mất phương hướng sứ mạng: Ban đầu chỉ đào tạo từ cao đẳng trở xuống, về sau lại chạy theo hình thức “đại học” để được gọi là trường trọng điểm, mở ngành đại trà, cấp bằng cử nhân, thậm chí bác sỹ, thạc sĩ, tiến sỹ,…không dựa trên năng lực và nhu cầu địa phương.
Bệnh hư danh và chạy theo hình thức: Nhiều địa phương đua nhau thành lập đại học địa phương, coi đó là "thành tích" hơn là giải pháp phát triển. Một số lãnh đạo địa phương thích mở ngành học "thời thượng" như công nghệ bán dẫn, tự động hóa, luật,… dù địa phương không có nhu cầu hoặc nguồn lực giảng dạy.
Chất lượng đào tạo thấp: Giảng viên chủ yếu chuyển từ trường trung cấp, cao đẳng lên, thiếu thầy giỏi, thiếu kết nối doanh nghiệp. Chương trình học mang nặng lý thuyết, thiếu tính ứng dụng.
Học phí thấp, đầu tư dàn trải, thiếu tự chủ: Nhiều trường phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách tỉnh, nhưng ngân sách lại ưu tiên cho hạ tầng, không đầu tư chiến lược dài hạn. Các trường không có động lực tự chủ, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm giải trình.
Xa rời thực tiễn và doanh nghiệp: Trường ít hợp tác với doanh nghiệp, ít tổ chức đào tạo theo đơn đặt hàng, không dựa vào dự báo nhân lực địa phương.
Thiếu cơ chế giám sát hiệu quả: Hội đồng trường còn hình thức, Ủy ban nhân dân tỉnh chưa có bộ phận chuyên môn đủ mạnh để theo dõi và định hướng trường.
Hệ quả:
Người học thiếu niềm tin, bỏ địa phương để vào các đại học lớn ở thành phố, khiến các trường địa phương rơi vào khủng hoảng tuyển sinh, thậm chí phải “giảm chuẩn” để duy trì tồn tại.
Cơ sở vật chất bị bỏ phí hoặc sử dụng kém hiệu quả. Có nơi xây trường rất lớn nhưng quy mô thực tế chỉ bằng một khoa của đại học khác.
Doanh nghiệp địa phương không xem trường là nơi hợp tác đào tạo hay tuyển dụng.
Một số trường bị sáp nhập trở lại, hoặc tồn tại trong tình trạng cầm chừng, kéo dài sự lãng phí nguồn lực công.
Chính những thực trạng đó là cơ sở để khẳng định: cần thay đổi căn bản mô hình đại học địa phương theo hướng đại học cộng đồng – một mô hình phù hợp hơn với mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm và thực chất tại mỗi địa phương.
Cơ sở lý luận và thực tiễn để chuyển đổi sang mô hình đại học cộng đồng
Khác với các đại học nghiên cứu hay đại học tinh hoa, đại học cộng đồng được thiết kế với mục tiêu:
Phục vụ cộng đồng địa phương: Gắn đào tạo với nhu cầu thực tế, kinh tế, xã hội và văn hóa của địa phương.
Mở rộng cơ hội học tập: Tiếp cận đại chúng, học phí thấp, linh hoạt về đầu vào và đầu ra.
Linh hoạt và thực hành: Chương trình mang tính nghề nghiệp và ứng dụng cao, có thể liên thông lên các bậc học cao hơn.
Đa dạng hóa hình thức học: Cung cấp từ các chứng chỉ nghề ngắn hạn, trung học nghề, cao đẳng, tới một số ngành cử nhân thực hành.
Theo lý thuyết về phát triển vùng và công bằng trong giáo dục, đại học cộng đồng góp phần: Giảm bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn; Phát triển nguồn nhân lực tại chỗ để thu hút đầu tư, giữ chân thanh niên ở địa phương với tinh thần “ly nông bất ly hương”; Góp phần nâng cao năng lực tự cường của mỗi tỉnh, giảm gánh nặng di cư lao động về các thành phố lớn.
Mô hình này còn phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam về giáo dục mở, học tập suốt đời, phân tầng đại học, và phát triển giáo dục gắn với thị trường lao động.
Nhìn từ quốc tế cho thấy:
Hoa Kỳ: Gần 1.000 trường đại học cộng đồng đào tạo hơn 40% sinh viên cả nước. Học phí chỉ bằng 1/4 đại học 4 năm. Trường linh hoạt theo địa phương, chương trình gắn sát thị trường lao động.
Hàn Quốc: Các đại học cộng đồng (Junior Colleges) tập trung đào tạo nghề, hợp tác chặt với doanh nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm cao.
Thái Lan: Chính phủ chủ trương mỗi tỉnh có ít nhất một trường đại học cộng đồng; giao quyền tự chủ tài chính và học thuật cao, có cơ chế phối hợp trực tiếp với chính quyền tỉnh và doanh nghiệp.
Những bài học này cho thấy mô hình đại học cộng đồng hiệu quả nhất khi gắn chặt với chính quyền cấp tỉnh, có cơ chế điều phối giữa nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp – cộng đồng.
Còn tại Việt Nam, các đại học địa phương hiện nay chưa thực hiện được chức năng phục vụ cộng đồng địa phương một cách hiệu quả. Việc chuyển đổi sang mô hình đại học cộng đồng là tất yếu nếu muốn: Giải quyết mâu thuẫn giữa hình thức “đại học” và thực lực yếu; Tối ưu hóa nguồn lực địa phương; Và gắn kết chặt với doanh nghiệp và phát triển kỹ năng nghề.
Việt Nam từng có mô hình trường cao đẳng cộng đồng tuy có tiềm năng nhưng thiếu cơ chế tích hợp, chưa có vị thế và hệ thống pháp lý rõ ràng.
Trong khi, Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh “phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mở, học tập suốt đời, phù hợp với từng vùng”.
Đặc biệt, tại cuộc họp của Ủy ban Quốc gia đổi mới giáo dục và đào tạo (vào hồi đầu tháng 11/2024), Thủ tướng Phạm Minh Chính đặc biệt lưu ý: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các địa phương, các cơ sở giáo dục-đào tạo để có không gian sáng tạo; nâng cao tính tự chủ của các địa phương với tinh thần địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. (1)
Từ những cơ sở trên, việc chuyển đổi các trường đại học địa phương sang mô hình đại học cộng đồng không chỉ là cần thiết, mà còn cấp bách.
Hướng xử lý đối với hệ thống cơ sở giáo dục đại học địa phương
Rà soát, phân loại và đánh giá thực trạng:
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh tiến hành đánh giá toàn diện các trường đại học địa phương hiện có về: Chất lượng đào tạo, quy mô ngành nghề; Mức độ gắn kết với nhu cầu phát triển địa phương; Cơ cấu tổ chức, quản trị, tài chính; Mức độ tự chủ và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Kết quả đánh giá sẽ làm cơ sở để phân loại các trường:
Nhóm có thể chuyển đổi thành đại học cộng đồng: Có định hướng phục vụ đào tạo nhân lực địa phương, năng lực quản trị đủ tốt.
Nhóm cần sáp nhập hoặc tái cơ cấu: Trường hoạt động kém hiệu quả, không phù hợp hoặc thiếu nguồn lực. Có thể bị hạ cấp đào tạo nếu muốn tồn tại độc lập.
Nhóm vẫn giữ nguyên mô hình đại học truyền thống: Có thể chuyển thành trường đại học công lập đa ngành tự chủ hoàn toàn.
Trên cơ sở phân loại, từng trường sẽ xây dựng đề án chuyển đổi: Điều chỉnh chương trình đào tạo gắn chặt với nhu cầu địa phương; Tái cơ cấu tổ chức theo mô hình đại học cộng đồng với Hội đồng cố vấn có tỷ lệ thành viên ngoài trường cao; Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tập trung giảng viên cơ hữu có trách nhiệm xã hội; Đề xuất phương án tài chính minh bạch, khai thác hiệu quả nguồn lực địa phương và doanh nghiệp; Đề án chuyển đổi phải được Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, có lộ trình cụ thể từng giai đoạn (3-5 năm).
Hỗ trợ chuyển đổi và nâng cao năng lực:
Trung ương cần có chương trình hỗ trợ kỹ thuật và tài chính dành riêng cho các trường địa phương chuyển đổi: Đào tạo nâng cao năng lực quản trị đại học cộng đồng cho cán bộ lãnh đạo; Hỗ trợ xây dựng chương trình đào tạo mới, phù hợp với đặc thù địa phương; Tài trợ đầu tư trang thiết bị giảng dạy, cơ sở vật chất; Tạo điều kiện tiếp cận các chương trình hợp tác quốc tế, liên kết với đại học cộng đồng quốc tế.
Cơ chế giám sát và đánh giá chuyển đổi:
Thiết lập bộ tiêu chí, bộ công cụ đánh giá tiến độ và hiệu quả chuyển đổi theo định kỳ (hàng năm, 3 năm, 5 năm).
Thành lập Ban giám sát độc lập có sự tham gia của Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, doanh nghiệp và đại diện người học.
Công khai minh bạch kết quả, lấy ý kiến phản biện rộng rãi để điều chỉnh kịp thời.
Xử lý các trường không đủ điều kiện hoặc không thực hiện chuyển đổi:
Đối với các trường không đủ điều kiện hoặc không thực hiện đúng lộ trình, đề xuất sáp nhập vào đại học cộng đồng cấp tỉnh, tránh phân tán nguồn lực.

Ảnh minh họa: Đại học Phenikaa
Đề xuất mô hình tổ chức và cơ chế vận hành đại học cộng đồng cấp tỉnh
Trường đại học cộng đồng cấp tỉnh nên được tổ chức dưới hình thức một pháp nhân giáo dục đại học công lập, trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, có tư cách pháp nhân độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, thực hiện cơ chế tự chủ được luật định.
Trường có thể hoạt động theo mô hình đa cơ sở (multi-campus) trong phạm vi tỉnh, gồm một trụ sở chính và các phân hiệu tại các khu vực trung tâm huyện/thị xã nếu cần.
Cơ cấu tổ chức cụ thể gồm:
Một là, Hội đồng cố vấn: Là tổ chức tham mưu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về dự án đại học cộng đồng, được Chủ tịch chọn lựa thành viên và ký quyết định thành lập; đại diện cho lợi ích của cộng đồng; có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh để quyết định các vấn đề về chiến lược phát triển, phê chuẩn quy hoạch ngành nghề, cơ cấu tổ chức bộ máy, quy trình giám sát hiệu trưởng…
Thành phần gồm: đại diện doanh nghiệp, lãnh đạo địa phương, chuyên gia giáo dục, cán bộ trong trường (chiếm không quá 30%), đại diện người học.
Chủ tịch Hội đồng cố vấn có thể là người ngoài trường, do Ủy ban nhân dân tỉnh phê chuẩn theo đề xuất của Hội đồng.
Hai là, Hiệu trưởng và Ban giám hiệu: Hiệu trưởng do Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm, chịu trách nhiệm điều hành chuyên môn, quản lý tài chính – nhân sự, tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo.
Ba là, Đảng ủy trường: Là tổ chức lãnh đạo chính trị trong trường, bảo đảm định hướng tư tưởng, thực hiện các nghị quyết của Đảng, các chủ trương-chính sách của Nhà nước; đồng hành cùng Ban giám hiệu nhưng không can thiệp vào các quyết định học thuật – chuyên môn.
Bốn là, Hội đồng Khoa học và Đào tạo: Có vai trò tư vấn học thuật, thẩm định chương trình đào tạo, khuyến nghị phát triển ngành, công nhận kết quả nghiên cứu và cải tiến phương pháp giảng dạy.
Năm là, các phòng, khoa, trung tâm: Tùy theo quy mô, trường có thể tổ chức:
Các khoa chuyên môn (quản trị – dịch vụ, công nghệ – kỹ thuật, giáo dục – xã hội, nông nghiệp – môi trường…).
Các phòng chức năng (đào tạo, hợp tác – doanh nghiệp, khảo thí – đảm bảo chất lượng, công tác sinh viên…).
Trung tâm khởi nghiệp, chuyển giao công nghệ, tư vấn nghề nghiệp và học tập suốt đời.
Cơ chế vận hành:
Trường được thực hiện quyền tự chủ về chuyên môn, tổ chức nhân sự và tài chính theo quy định tại Luật Giáo dục đại học, với ba nguyên tắc: Gắn với cơ chế giám sát trách nhiệm giải trình; Bảo đảm tiếp cận công bằng (không tăng học phí); Tự chủ từng phần, theo lộ trình nâng cao năng lực nội tại.
Phối hợp “bốn nhà” trong đó:
Nhà nước (Ủy ban nhân dân tỉnh) phê duyệt ngân sách, hỗ trợ chính sách, định hướng ngành nghề phù hợp quy hoạch nhân lực địa phương.
Nhà trường tổ chức đào tạo, quản lý học sinh – sinh viên, kết nối thị trường lao động.
Nhà doanh nghiệp đồng xây dựng chương trình, tài trợ học bổng – cơ sở vật chất, cam kết tuyển dụng.
Nhà giáo và cộng đồng tham gia định hình chất lượng đào tạo, kiểm tra – phản biện xã hội.
Đặc biệt, nhà trường cần được đặt trong hệ sinh thái quản trị gồm: Hội đồng Giáo dục và Phát triển nhân lực tỉnh (tư vấn chiến lược); Kết nối với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Khoa học và Công nghệ; Các chính sách đặc thù về ngân sách, đất đai, khởi nghiệp… nên được tích hợp.
Nguồn lực phát triển và các giải pháp bảo đảm tài chính bền vững mà không cần tăng học phí
Trường đại học cộng đồng cấp tỉnh không thể được nhìn nhận theo lối mòn là một cơ sở đào tạo cấp thấp, tiết kiệm ngân sách hay “cấp tạm thời”. Thay vào đó, phải được coi là: Một thiết chế công phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển năng lực cạnh tranh địa phương và đảm bảo công bằng xã hội. Và là công cụ chính sách chiến lược của cấp tỉnh để thúc đẩy phát triển bền vững, nâng cao chỉ số phát triển con người và tăng cường năng lực thích ứng của cộng đồng dân cư.
Vì thế, tỉnh phải đầu tư mạnh, chủ động và có chiến lược dài hạn. Đầu tư cho đại học cộng đồng không phải chi thường xuyên mà là đầu tư vào năng lực nội sinh của địa phương.
Ngân sách nhà nước từ nguồn chi giáo dục của địa phương là trụ cột chính yếu cho sự tồn tại của đại học cộng đồng, nhất là trong 5–10 năm đầu. Do đó, Hội đồng nhân dân tỉnh phải: Bảo đảm phân bổ tỷ lệ ngân sách hợp lý cho đại học cộng đồng, không theo đầu học sinh mà theo nhiệm vụ chính trị – xã hội được giao; Gắn trách nhiệm phân bổ ngân sách với chỉ tiêu đào tạo, chất lượng đầu ra, mức độ phục vụ phát triển địa phương; Phê chuẩn các chính sách đặc thù như miễn học phí cho một số nhóm ngành nghề trọng điểm hoặc địa bàn khó khăn.
Đặc biệt, cần phải huy động trách nhiệm tài chính từ doanh nghiệp địa phương bằng cách:
Xây dựng cơ chế “đầu tư – hoàn trả”: Doanh nghiệp đồng hành tài trợ chi phí đào tạo, đổi lại có nguồn nhân lực theo yêu cầu, được ghi nhận trách nhiệm xã hội, thậm chí được miễn/giảm một phần thuế (nếu luật sửa đổi cho phép).
Thành lập Quỹ phát triển đại học cộng đồng tỉnh: Có sự đóng góp ban đầu của tỉnh, doanh nghiệp lớn, và các nguồn hợp pháp khác. Hội đồng quản lý quỹ có thể gồm đại diện chính quyền, doanh nghiệp, nhà trường và cộng đồng.
Cần thay đổi văn hóa doanh nghiệp: Coi tài trợ giáo dục là một phần của chiến lược phát triển vùng nguyên liệu – thị trường – lao động lâu dài, chứ không chỉ là hoạt động CSR ngắn hạn.
Vì vậy, tỉnh nên cấp đất ổn định, lâu dài để trường đầu tư hạ tầng và phát triển các dịch vụ hỗ trợ học tập (ký túc xá, nhà ăn, trung tâm kỹ năng…).
Cho phép nhà trường khai thác tài sản hợp pháp (như khu thực hành, trung tâm dịch vụ, trung tâm nghiên cứu ứng dụng…) để tăng nguồn thu, miễn là không trái quy định pháp luật và không ảnh hưởng chức năng đào tạo và tăng nguồn thu từ hoạt động học thuật và dịch vụ xã hội thông qua: thu học phí từ các chương trình liên kết quốc tế với mức phí hợp lý, dùng để bù chéo các chương trình cộng đồng; Đào tạo theo đơn đặt hàng của các huyện, doanh nghiệp hoặc các tổ chức quốc tế (trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường, logistics…); Dịch vụ chuyển giao công nghệ, tư vấn nghề nghiệp, dạy nghề ngắn hạn, giáo dục thường xuyên, dạy học trực tuyến,...
Cuối cùng, cần bảo đảm chi phí hợp lý – không tăng học phí: Đây là nguyên tắc bất di bất dịch. Bởi lẽ nếu tăng học phí, sinh viên sẽ lựa chọn rời địa phương để học tại các đại học có thương hiệu hơn ở thành phố. Vì vậy, trường cam kết giữ học phí thấp, chỉ thu các khoản hợp lý theo quy định; Tỉnh cần có chính sách học bổng, hỗ trợ học sinh nghèo học tập suốt đời, xem đó như đầu tư an sinh bền vững; Trường triển khai chương trình “vừa học vừa làm”, đào tạo tích hợp tại doanh nghiệp, để sinh viên có thu nhập hỗ trợ học phí.
Chính sách phát triển đội ngũ và cơ chế tuyển dụng – đãi ngộ
Khác với đại học nghiên cứu hoặc đại học định hướng học thuật, đại học cộng đồng cần đội ngũ linh hoạt, đa năng, gắn chặt với thực tiễn, có khả năng giảng dạy – hướng dẫn – tổ chức học tập cho đa dạng đối tượng người học, kể cả người lớn tuổi, người chuyển đổi nghề nghiệp.
Đội ngũ này bao gồm: giảng viên cơ hữu - người nắm giữ chương trình, bảo đảm chất lượng đào tạo cốt lõi; Giảng viên thỉnh giảng từ doanh nghiệp, hiệp hội nghề, các viện nghiên cứu… để tăng tính ứng dụng; Giáo viên hướng dẫn thực hành – kỹ thuật viên – cố vấn học tập: không nhất thiết có học hàm học vị cao nhưng giàu kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng sư phạm.
Đại học cộng đồng không nên đóng khung việc tuyển dụng theo tiêu chuẩn hàn lâm truyền thống (thạc sĩ, tiến sĩ, công bố quốc tế...), mà cần có các loại hình tuyển dụng khác nhau:
Giảng viên chuyên môn: có thể tuyển thạc sĩ hoặc cử nhân giỏi, nhưng phải có chứng chỉ sư phạm và/hoặc được bồi dưỡng nghiệp vụ định kỳ.
Chuyên gia ngành nghề: được tuyển với chế độ hợp đồng hoặc thỉnh giảng, dựa trên thâm niên thực hành và uy tín nghề nghiệp.
Người lao động có năng lực đặc biệt (nghệ nhân, kỹ sư trưởng, chủ hợp tác xã giỏi...) được mời tham gia giảng dạy kỹ năng nghề, kỹ năng mềm, đào tạo người học theo hướng kèm cặp.

Sinh viên Trường Đại học Hồng Đức. Ảnh: HDU
Đãi ngộ: Cơ chế linh hoạt, gắn với trách nhiệm xã hội
Không rập khuôn chế độ viên chức nhà nước: Trường có thể áp dụng cơ chế hợp đồng cạnh tranh, linh hoạt với từng nhóm nhân sự.
Thưởng theo hiệu quả công việc và đóng góp cộng đồng, không chỉ dựa vào số giờ giảng hoặc công trình nghiên cứu.
Ưu đãi đặc biệt cho người cam kết làm việc tại địa phương dài hạn, đặc biệt ở vùng sâu xa.
Gợi ý mỗi tỉnh nên ban hành chính sách nhân lực riêng cho đại học cộng đồng, có thể gồm hỗ trợ nhà ở, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân, xét tặng danh hiệu hoặc hỗ trợ con em học tập.
Phát triển đội ngũ: Học tập suốt đời và kết nối hệ sinh thái đào tạo
Giảng viên được hỗ trợ tham gia các chương trình tập huấn ngắn hạn trong và ngoài nước về giáo dục nghề nghiệp, sư phạm đại học, công nghệ số…
Thực hiện cơ chế "trao đổi giảng viên vùng – tỉnh – doanh nghiệp" để đội ngũ giảng viên thường xuyên cập nhật thực tiễn.
Xây dựng hệ thống cộng đồng học tập nội bộ: nơi giảng viên học hỏi lẫn nhau, chia sẻ tài nguyên, cải tiến bài giảng.
Khuyến khích nghiên cứu ứng dụng, viết bài giảng địa phương hóa, hướng dẫn sinh viên thực hiện dự án nhỏ phục vụ cộng đồng.
Xây dựng văn hóa nhân văn, cộng tác và đổi mới trong nhà trường
Môi trường làm việc của đại học cộng đồng phải tôn trọng sự đa dạng, không nặng về cấp bậc hàn lâm, khuyến khích sáng tạo.
Hiệu trưởng và ban giám hiệu đóng vai trò "kiến tạo – phục vụ", hỗ trợ đội ngũ giảng viên chứ không chỉ quản lý hành chính.
Mỗi giảng viên phải thấy trường là nơi thực hiện trách nhiệm xã hội, không chỉ là nơi đi làm vì thu nhập.
Mô hình quản trị: Đại học cộng đồng có sứ mệnh đặc biệt – phục vụ phát triển nhân lực và nâng cao dân trí tại địa phương – nên mô hình quản trị cũng phải đặc biệt. Cần tránh cơ chế quản lý hành chính cứng nhắc, hoặc mô phỏng theo mô hình đại học nghiên cứu, hàn lâm. Thay vào đó, cần xây dựng mô hình "quản trị vì cộng đồng", trong đó nhiều chủ thể cùng chia sẻ quyền lực và trách nhiệm.
Vai trò trung tâm của Ủy ban nhân dân tỉnh: Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan thành lập, chủ quản và bảo trợ chính trị – hành chính cho trường đại học cộng đồng.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là người ra quyết định cuối cùng về các vấn đề chiến lược, bổ nhiệm hiệu trưởng, phê duyệt kế hoạch tài chính – đầu tư.
Tuy nhiên, cần bảo đảm nguyên tắc: Ủy ban nhân dân không can thiệp vào học thuật, chương trình đào tạo, nhân sự chuyên môn.
Ủy ban nhân dân tỉnh phải: Xác định trường là một thiết chế chiến lược, ngang hàng với bệnh viện, đài truyền hình, đội bóng…; Bảo đảm ngân sách công, giao chỉ tiêu đào tạo, đặt hàng nhân lực theo nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội; Kết nối trường với doanh nghiệp, khu công nghiệp, hệ thống chính trị – xã hội trong tỉnh;
Hội đồng cố vấn:Đại diện cho lợi ích của cộng đồng; có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh để quyết định các vấn đề về chiến lược phát triển, phê chuẩn quy hoạch ngành nghề, cơ cấu tổ chức bộ máy, quy trình giám sát hiệu trưởng…
Đảng ủy nhà trường: Đảng ủy trường phải là hạt nhân chính trị, bảo đảm nhà trường hoạt động đúng định hướng, đúng pháp luật, và phục vụ lợi ích nhân dân địa phương; Không làm thay Hội đồng cố vấn hay hiệu trưởng, nhưng phải tham gia trong các quyết sách lớn, quy hoạch cán bộ, và giám sát thực hiện nghị quyết.
Mối quan hệ giữa Đảng ủy – Hội đồng cố vấn – Hiệu trưởng cần rõ ràng:

Hội đồng nhân dân tỉnh: Hội đồng nhân dân tỉnh có quyền phân bổ ngân sách, giám sát chi tiêu, đánh giá hiệu quả hoạt động của đại học cộng đồng.
Doanh nghiệp và hiệp hội nghề nghiệp: Không nên chỉ "kêu gọi hỗ trợ", mà luật hóa trách nhiệm đóng góp của doanh nghiệp với giáo dục địa phương (quỹ học bổng, tài trợ chương trình, đào tạo kép…).
Kiến nghị chính sách và khung thể chế phát triển đại học cộng đồng
Phân biệt rõ đại học cộng đồng với các mô hình hiện hữu
Trước hết, cần xác định rõ vị trí pháp lý và chức năng của đại học cộng đồng trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Do đó, cần luật hóa mô hình đại học cộng đồng như một thiết chế độc lập, khác biệt với các mô hình hiện nay, nằm trong Luật Giáo dục đại học và các luật liên quan.
Sửa đổi Luật Giáo dục đại học và các văn bản dưới luật
Một là, bổ sung điều riêng về đại học cộng đồng: Xác lập khái niệm, sứ mệnh, phạm vi đào tạo, và cơ chế tổ chức đặc thù; Giao Ủy ban nhân dân tỉnh quyền thành lập, phê duyệt tổ chức bộ máy, nhưng phải có sự tham gia giám sát của cộng đồng và Hội đồng nhân dân tỉnh.
Hai là, thay đổi tiêu chí xếp loại và đánh giá chất lượng: Không đánh giá đại học cộng đồng bằng chuẩn của đại học nghiên cứu hay đại học tinh hoa; Xây dựng bộ tiêu chí riêng, tập trung vào đóng góp xã hội, tỷ lệ việc làm tại địa phương, mức độ phục vụ người học yếu thế.
Ba là, cơ chế tài chính đặc thù: Cho phép đại học cộng đồng được ưu tiên tiếp cận ngân sách địa phương, sử dụng tài sản công lâu dài, nhưng phải công khai, minh bạch và được giám sát xã hội; Bổ sung cơ chế tài trợ bắt buộc/tự nguyện từ doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề, có thể tính vào chi phí được trừ thuế.
Khuyến nghị về tổ chức và nhân sự
Hiệu trưởng cần là người có uy tín xã hội tại địa phương, hiểu rõ nhu cầu nhân lực và có năng lực quản trị cộng đồng, chứ không đơn thuần là nhà giáo thuần túy.
Quy trình bổ nhiệm phải công khai, có phản biện của cộng đồng, có sự tham vấn từ cộng đồng và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Hội đồng cố vấn phải có ít nhất 50% thành viên ngoài trường; nên bổ sung đại diện Hội đồng nhân dân, Liên đoàn Lao động, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh.
Đề xuất cơ chế điều phối và giám sát cấp tỉnh:
Thành lập Hội đồng Giáo dục và Phát triển nhân lực cấp tỉnh, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm Chủ tịch, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo làm Phó Chủ tịch Thường trực, hiệu trưởng đại học cộng đồng và đại diện doanh nghiệp là thành viên.
Hội đồng có nhiệm vụ: Dự báo nhu cầu nhân lực của tỉnh theo từng năm và từng giai đoạn; Phân bổ chỉ tiêu đào tạo, gắn với phân bổ ngân sách. Định hướng phát triển ngành nghề tại đại học cộng đồng gắn với quy hoạch phát triển tỉnh.
Kiến nghị Trung ương ban hành chính sách khuyến khích và bảo vệ mô hình:
Ban Bí thư, Chính phủ và Quốc hội cần có Nghị quyết riêng về phát triển đại học cộng đồng, xem đây là một trụ cột của chiến lược phát triển bền vững.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng khung chuẩn riêng về kiểm định, chương trình đào tạo, tổ chức đội ngũ cho loại hình này.
Không áp dụng chuẩn kiểm định chung với đại học nghiên cứu hay đại học tinh hoa.
Định hướng xây dựng mạng lưới đại học cộng đồng quốc gia: Trên cơ sở từng đại học cộng đồng cấp tỉnh, có thể hình thành mạng lưới quốc gia, chia sẻ tài nguyên học liệu, giảng viên thỉnh giảng, chương trình đào tạo khung.
Giờ là lúc để địa phương không chỉ "có trường đại học", mà thật sự nuôi dưỡng một đại học của dân - vì dân –do dân – nơi học sinh không phải rời quê hương, doanh nghiệp không phải lặn lội tuyển nhân lực xa, và chính quyền có một công cụ đắc lực để phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo:
(1) https://baochinhphu.vn/thu-tuong-dua-giao-duc-va-dao-tao-viet-nam-theo-kip-cac-nuoc-phat-trien-cang-som-cang-tot-102241102161701251.htm