Luật Biên phòng Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới

Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia; Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11-6-2019 của Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 7 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019; ngày 25-11-2019, Bộ Quốc phòng đã trình Chính phủ Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam.

Trung tướng Đỗ Danh Vượng. Ảnh: Hoa Hạ

Trung tướng Đỗ Danh Vượng. Ảnh: Hoa Hạ

Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam đã được Quốc hội xem xét, thảo luận lần đầu tại Kỳ họp thứ 9. Sau kỳ họp, Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tổ chức các cuộc hội thảo, lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, bảo đảm công khai, dân chủ để tiếp thu, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý xây dựng Luật Biên phòng Việt Nam. Qua nhiều lần tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung; đến nay, Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam đã hoàn thiện về nội dung và hình thức với 6 chương, 36 điều và đã được trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV.

Quá trình nghiên cứu xây dựng Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam đã tiếp thu, tổng hợp hàng trăm ý kiến tham gia đóng góp từ các cơ quan, ban, ngành; các hội thảo, tọa đàm, khảo sát diễn ra ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, tất cả đều khẳng định: Dự thảo Luật đã bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tính minh bạch, khả thi, dễ thực hiện; vấn đề bình đẳng giới và yêu cầu cải cách thủ tục hành chính được bảo đảm; không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, Luật Biên phòng Việt Nam được Quốc hội thông qua tạo cơ sở pháp lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng trong tình hình mới, thể hiện tập trung trong các vấn đề sau:

Một là, củng cố cơ sở pháp lý cho việc nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ biên phòng của các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng

Để nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ biên phòng, đòi hỏi các lực lượng phải xác định tường minh các vấn đề cơ bản: Biên phòng, nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân, nhiệm vụ biên phòng, lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng. Trong hệ thống pháp luật quân sự, quốc phòng hiện hành, các vấn đề trên đã đề cập hoặc chưa được đề cập đến, hoặc đã được khẳng định về thuật ngữ pháp lý song chưa có sự giải thích rõ ràng (Điều 28 Luật Biên giới quốc gia, Điều 15 Nghị định số 140/2004/NĐ-CP ngày 25-6-2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Biên giới quốc gia). Điều này gây ra khó khăn trong triển khai các hoạt động cụ thể của các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng. Giải quyết vấn đề này, Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam đã giải thích các khái niệm tại Điều 2: “Biên phòng là tổng thể các hoạt động, biện pháp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”; “Nền biên phòng toàn dân là sức mạnh biên phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần và các nguồn lực với phương châm toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”; “Thế trận biên phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và các nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ biên phòng phù hợp với chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”.

Đặc biệt, nhiệm vụ biên phòng được quy định trong Dự thảo Luật, với nội dung: Xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch bảo vệ biên giới quốc gia; Quản lý, bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; xây dựng, quản lý, bảo vệ hệ thống mốc quốc giới, công trình biên giới, cửa khẩu, công trình khác ở khu vực biên giới; Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, hòa bình, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, tài nguyên, môi trường; bảo đảm việc thi hành pháp luật ở khu vực biên giới, cửa khẩu; Xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ở khu vực biên giới, phòng thủ dân sự; phòng, chống ứng phó, khắc phục sự cố thiên tai, môi trường, biến đổi khí hậu, thảm họa, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới; Hợp tác quốc tế về biên phòng, đối ngoại biên phòng và ngoại giao nhân dân, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển.

Bên cạnh đó, lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng được quy định gồm hai nhóm: Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân ở khu vực biên giới, cửa khẩu và cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân ở khu vực biên giới, cửa khẩu. Việc quy định các nội dung trên thể hiện tính khoa học, khách quan, được xác lập trên nền tảng khoa học, bám sát yêu cầu, đòi hỏi và những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, hướng tới mục tiêu tối cao là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.

Hai là, củng cố cơ sở pháp lý cho việc nâng cao năng lực phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng của các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng

Nhiệm vụ biên phòng mang tính toàn diện, liên quan đến nhiều lĩnh vực, diễn ra chủ yếu ở địa bàn đặc thù, nên phải được thực thi bởi nhiều chủ thể với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Năng lực tổ chức, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia của các chủ thể trong tình hình mới không chỉ đòi hỏi sự độc lập, chủ động của từng chủ thể thực thi nhiệm vụ biên phòng mà còn cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các chủ thể với nhau.

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP phối hợp với các lực lượng tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh: CTV

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP phối hợp với các lực lượng tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh: CTV

Thực tiễn cho thấy, công tác phối hợp giữa các lực lượng đã mang lại kết quả thiết thực: Bộ Tư lệnh BĐBP chủ động ký và duy trì tổ chức thực hiện có hiệu quả 26 quy chế phối hợp với Bộ Tư lệnh các Quân khu, Quân chủng và các cơ quan, lực lượng liên quan như: Công an, Hải quan, Kiểm ngư trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ, xử lý có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra ở khu vực biên giới, vùng biển (chỉ tính riêng năm 2019 và 6 tháng đầu năm 2020, BĐBP đã phối hợp với lực lượng Công an bắt giữ, xử lý 11 vụ/23 đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia, 195 vụ/352 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ 1.408kg ma túy các loại; xử lý vi phạm hành chính 1.133 vụ/1.753 đối tượng; phối hợp với Hải quan kiểm tra, kiểm soát 264.089.321 tấn hàng hóa nhập khẩu và 527.948.033 tấn hàng hóa xuất khẩu tại cửa khẩu đường bộ; phối hợp Hải quan, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ đường thủy nội địa kiểm tra 1.811.459.169 tấn hàng hóa xuất khẩu và 908.876.340 tấn hàng hóa nhập khẩu. Qua kiểm tra, kiểm soát đã phát hiện, xử lý 13.078 vụ/16.192 đối tượng người Việt Nam và 4.917 vụ/5.215 đối tượng người nước ngoài vi phạm pháp luật)...

Tuy nhiên, công tác này còn có những hạn chế nhất định, đặc biệt là chưa phát huy tối đa khả năng của các cơ quan, đơn vị trong hoạt động hợp tác thực thi nhiệm vụ biên phòng; có thời điểm còn để xảy ra sai sót, hiệu quả phối hợp chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản của hạn chế là chưa xác lập được cơ sở pháp lý thống nhất, quy định phạm vi, nguyên tắc, nội dung phối hợp. Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam khắc phục vấn đề này thông qua quy định về phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng. Trong đó, quy định rõ phạm vi phối hợp đối với từng cơ quan, tổ chức đảm bảo phân định chính xác, rõ nhiệm vụ của từng chủ thể, đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức theo quy định pháp luật chuyên ngành, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cũng xác định rõ nguyên tắc phối hợp của các lực lượng; đặc biệt, quy định cụ thể các trường hợp áp dụng nguyên tắc xử lý vụ việc xảy ra tại địa bàn khu vực biên giới, cửa khẩu nhưng liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng; đảm bảo tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, không tạo khoảng trống trong xử lý các vụ việc; xác định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, lực lượng, tránh việc đùn đẩy trách nhiệm. Những nội dung phối hợp là những vấn đề có tính chất liên ngành, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý của nhà nước ở khu vực biên giới, cửa khẩu đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, lực lượng mới có thể hoàn thành. Cơ chế phối hợp trên thực tiễn đa dạng, do đó, Quốc hội giao cho Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết việc phối hợp, trên cơ sở quán triệt đầy đủ quy định của Luật này về phạm vi, nguyên tắc, nội dung phối hợp.

Ba là, củng cố cơ sở pháp lý cho việc nâng cao năng lực hợp tác quốc tế về biên phòng

Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ quốc gia là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, luôn gắn liền với việc thực hiện thẩm quyền của các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng khác đều quy định các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Đây chính là cơ sở để các quốc gia triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về biên phòng.

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia xác định: “Mở rộng và đưa quan hệ hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng với lực lượng bảo vệ biên giới của các nước láng giềng và lực lượng chức năng của các nước có liên quan đi vào chiều sâu... Xây dựng và quản lý, bảo vệ biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển”. Quan điểm của Đảng là định hướng quan trọng cho việc thiết lập, củng cố cơ sở pháp lý hợp tác quốc tế về biên phòng. Đồng thời, qua đó khẳng định thành quả thực hiện công tác đối ngoại biên phòng trong thời gian qua với những nội dung, hình thức sáng tạo, là nhân tố quan trọng tạo nên sự ổn định, phát triển trên biên giới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam thể chế hóa quan điểm của Đảng, bằng các quy định về nguyên tắc, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về biên phòng. Những quy định đó hoàn toàn phù hợp với thực tiễn công tác biên phòng và bảo đảm tính khả thi, hiện đại.

Bốn là, củng cố cơ sở pháp lý cho việc nâng cao năng lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của BĐBP - lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới

Quán triệt Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; trên cơ sở nguyên tắc: “Một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính”; quan điểm về xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới trong Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia; Dự thảo Luật đã luật hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy BĐBP.

Trong đó, Dự thảo Luật đã khẳng định vị trí của BĐBP là “lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của QĐND Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới”; có ba chức năng: Tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước chính sách pháp luật về biên phòng; Thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP Long An giúp dân gặt lúa chạy lũ. Ảnh: Minh Luận

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP Long An giúp dân gặt lúa chạy lũ. Ảnh: Minh Luận

Thực hiện chức năng trên, BĐBP có 12 nhóm nhiệm vụ cụ thể: Nhóm nhiệm vụ BĐBP độc lập, chủ trì thực hiện và nhóm nhiệm vụ BĐBP tham gia, phối hợp thực hiện. Những nhiệm vụ này được xây dựng, phân định rõ ràng với nhiệm vụ biên phòng, bảo đảm sự kế thừa những quy định pháp luật về nội dung nhiệm vụ trong Pháp lệnh BĐBP đã thực hiện trên 61 năm qua và bổ sung những nội dung nhiệm vụ mới mà trên thực tế BĐBP đã thực hiện có hiệu quả, được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận, tôn vinh.

Năng lực tổ chức, quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia của BĐBP trong tình hình mới phải dựa trên cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp, với một đội ngũ cán bộ tinh, gọn, mạnh, trang bị kỹ thuật đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này còn phân tán trong các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp (Nghị định, Thông tư), nội dung có những bất cập, ảnh hưởng tới việc bố trí sử dụng lực lượng, thực thi nhiệm vụ của BĐBP trên các tuyến biên giới, biển đảo. Trước những yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, đòi hỏi cần phải thống nhất quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy, trang bị của BĐBP.

Do đó, Dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam đã quy định về hệ thống tổ chức ba cấp của BĐBP: Bộ Tư lệnh Biên phòng; Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Biên phòng; Đồn biên phòng, Ban Chỉ huy biên phòng cửa khẩu cảng, hải đội biên phòng. Trang bị của BĐBP gồm phương tiện quân sự, dân sự; các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn... Quy định trong Dự thảo Luật đã đáp ứng yêu cầu hoàn thiện bộ máy, hiện thực hóa chủ trương xây dựng BĐBP cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số thành phần tiến thẳng lên hiện đại.

Ngoài ra, trong Dự thảo Luật còn có các quy định xác lập và củng cố điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, bảo đảm tài sản, chế độ, chính sách đối với lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng nhằm cung cấp, huy động mọi nguồn lực cho nhiệm vụ biên phòng. Đây là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực thi nhiệm vụ biên phòng; phản ánh sự đãi ngộ, quan tâm đối với lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và các cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan.

Có thể khẳng định: Luật Biên phòng Việt Nam khi được thông qua sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, cá nhân xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, BĐBP là lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, ổn định lâu dài trong nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Trung tướng Đỗ Danh Vượng, Chính ủy Bộ đội Biên phòng

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/luat-bien-phong-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-nhiem-vu-quan-ly-bao-ve-chu-quyen-an-ninh-bien-gioi-quoc-gia-trong-tinh-hinh-moi-post434424.html