Lời cảnh tỉnh cho các doanh nghiệp đang tham gia các dự án vốn ngân sách
Ngày 9-9, TAND TP Hà Nội tiếp tục xét xử sơ thẩm vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn Thuận An (Tập đoàn Thuận An) và các tỉnh thành, đơn vị liên quan. Trong phần xét hỏi tại ngày xét xử thứ 2, cơ quan công tố tiếp tục phần thẩm vấn các bị cáo trong chuỗi 5 sai phạm đấu thầu công trình đầu tư công liên quan đến Tập đoàn Thuận An.

Đại diện VKSND Hà Nội thực hành quyền công tố tại tòa.
Chủ tịch Tập đoàn Thuận An nói sai phạm do cơ chế “xin-cho”
Theo cáo trạng, bị cáo Nguyễn Duy Hưng (Chủ tịch Tập đoàn Thuận An) đã lợi dụng mối quan hệ thân thiết với một số cá nhân là lãnh đạo cấp cao trong cơ quan nhà nước, nhờ giới thiệu, can thiệp, tác động đến lãnh đạo các địa phương, Bộ GTVT (cũ) tạo điều kiện cho Tập đoàn Thuận An tham gia đấu thầu, thi công các dự án, gói thầu.
Bị cáo Hưng trực tiếp đến gặp người có thẩm quyền liên quan đến chỉ đạo, triển khai thực hiện dự án, gói thầu để thỏa thuận tỷ lệ chi phần trăm, thống nhất phối hợp chỉ đạo nhân viên cấp dưới thông đồng, móc ngoặc với lãnh đạo, cán bộ Ban QLDA ở Bộ GTVT (cũ) và 4 tỉnh Bắc Giang, Tuyên Quang, Hà Nội, Quảng Ninh. Nhờ đó, Tập đoàn Thuận An và liên danh tham gia đấu thầu, trúng thầu, thi công các Dự án trái quy định của pháp luật, gây thiệt hại tài sản Nhà nước tổng số tiền 120 tỷ đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy Hưng đã trình bày một số tồn tại trong công tác đấu thầu, như các gói thầu ngân sách "gần như đều được chỉ định nhà thầu tham gia". Từ đó, bị cáo Hưng cho rằng trong bối cảnh "cơ chế xin-cho tồn tại từ rất lâu" và ăn sâu vào suy nghĩ trong các nhà thầu. Việc tạo ra sự sòng phẳng minh bạch cho công tác đấu thầu "rất khó".
Lấy ví dụ về gói thầu cầu Đồng Việt (tỉnh Bắc Giang cũ), bị cáo Hưng khai khi biết thông tin đã chủ động mời gọi một số nhà thầu lập liên danh tham gia đấu thầu. Nhưng các nhà thầu đều hỏi ngược lại: "Có được sự ủng hộ của tỉnh và chủ đầu tư hay không?". Khi biết Chủ tịch Tập đoàn Thuận An "chưa gặp" các lãnh đạo tỉnh, những nhà thầu này đều từ chối tham gia.
Qua những nội dung trình bày của bị cáo Hưng, cơ quan công tố nhìn nhận cơ chế "xin-cho" tồn tại đã lâu, tuy nhiên đại diện VKS cho rằng Nhà nước đã có các quy định pháp luật đảm bảo đấu thầu văn minh, đúng luật, công khai; trong đó nêu cả hành vi bị nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn vi phạm.
Theo cáo trạng, trong các dự án liên quan đang bị xét xử, Tập đoàn Thuận An bị nhìn nhận "không đủ điều kiện năng lực". Như dự án cầu Đồng Việt, Thuận An phải tìm doanh nghiệp giỏi chuyên môn để làm công trình, còn Thuận An lo phần "quan hệ". Tương tự tại dự án cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ, vì không có năng lực thi công, Thuận An phải bắt tay với một doanh nghiệp khác để nếu trúng thầu thì họ làm, còn Thuận An chỉ cấp vật tư. Họ cũng bàn bạc kiếm thêm "quân xanh, quân đỏ", lên phương án bỏ giá để "diễn kịch" cho buổi đấu thầu.

Các bị cáo tại phiên tòa.
Ông chủ Tập đoàn Thuận An móc ngoặc, chi “cơ chế” thế nào?
Nguyễn Duy Hưng (Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thuận An bị cáo buộc cầm đầu đường dây đấu thầu, móc ngoặc với cán bộ quản lý, gây thất thoát cho Nhà nước hơn 120 tỷ đồng và thu lợi bất chính gần 100 tỷ đồng. Đây là hệ thống liên kết móc ngoặc chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cán bộ quản lý nhà nước, vận hành bằng cơ chế chia chác, can thiệp từ đầu đến cuối quá trình đầu tư công.
Theo cáo trạng, bị cáo Nguyễn Duy Hưng có mối quan hệ cá nhân thân thiết với bị cáo Nguyễn Quang Huy (cựu Giám đốc BQL dự án 4, Cục Đường bộ). Khi biết BQL dự án 4 được giao làm chủ đầu tư Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 14E, Hưng đã nhanh chóng liên hệ với Huy để đề xuất cho Tập đoàn Thuận An tham gia đấu thầu và thi công.
Hai bên thỏa thuận, Tập đoàn Thuận An sẽ chi tiền “cơ chế” theo các tỷ lệ đã định sẵn: 5% giá trị hợp đồng trước thuế cho BQL dự án 4; 0,6% cho Chi cục Quản lý xây dựng đường bộ (khi duyệt dự toán và sau khi trúng thầu); 0,6% cho lãnh đạo Cục Đường bộ. Tổng số tiền “cơ chế” này sẽ do Hưng chi, đưa cho Huy giữ vai trò "đầu mối" để phân phối.
Đến tháng 8-2022, sau khi có sự phân chia các gói thầu dự án Quốc lộ 14E, Nguyễn Duy Hưng và Nguyễn Quang Huy thống nhất để Tập đoàn Thuận An thi công 2 trong 3 gói thầu chính (gói XD01 và XD02), gói còn lại do Cục Đường bộ và Ban QLDA 4 tổ chức đấu thầu theo quy định.
Trong giai đoạn thẩm định thiết kế, để đẩy nhanh tiến độ phê duyệt, cuối tháng 10-2022, bị cáo Hưng và bị cáo Nguyễn Ngọc Hòa (Phó Chủ tịch HĐQT Thuận An kiêm Chủ tịch HĐQT Công ty 168) trực tiếp gặp và đưa cho ông Vũ Hải Tùng (Chi cục trưởng Chi cục Quản lý xây dựng đường bộ) 1,2 tỷ đồng.
Trước thời điểm phát hành chính thức hồ sơ mời thầu (gói XD01 vào ngày 5-11; gói XD02 ngày 13-11), cán bộ BQL Dự án 4 đã sao chép dự thảo hồ sơ mời thầu rồi chuyển cho nhân viên kỹ thuật của Tập đoàn Thuận An. Các nhà thầu liên danh lại tiếp tục góp ý, chỉnh sửa theo hướng nới lỏng nhiều tiêu chí trong hồ sơ mời thầu, giúp liên danh nhà thầu đáp ứng điều kiện kỹ thuật và hợp thức hóa hồ sơ đấu thầu.
Tiếp đó, khi hồ sơ mời thầu gói XD02 chuẩn bị được điều chỉnh lần 2, Nguyễn Duy Hưng chỉ đạo cấp dưới đưa tiếp 1,3 tỷ đồng cho Vũ Hải Tùng để đẩy nhanh báo cáo thẩm định, đảm bảo tiến độ phát hành hồ sơ và phê duyệt dự toán.
Sau khi các gói thầu XD01 và XD02 được công bố kết quả, Tập đoàn Thuận An và liên danh nhà thầu trúng thầu như kịch bản đã định. Ngay sau đó, Nguyễn Duy Hưng thu 2 tỷ đồng “ngoài hợp đồng” từ 3 công ty tham gia liên danh.
Ngoài dự án Quốc lộ 14E, Nguyễn Duy Hưng và các đồng phạm còn bị cáo buộc thực hiện hành vi sai phạm trong các dự án lớn khác tại các tỉnh: Bắc Giang (cũ), Tuyên Quang (cũ), Quảng Ninh, TP Hà Nội, với sự tham gia hoặc tác động của một số cơ quan thuộc Bộ GTVT (cũ), gồm: Gói 17 Dự án cầu Đồng Việt (Bắc Giang cũ); Gói 26 Dự án cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ; Gói 2 Dự án cầu Vĩnh Tuy (Hà Nội); Gói 13 Dự án đường ven sông Hạ Long - Đông Triều (Quảng Ninh).