Logic thắng lợi của cách mạng tháng tám
HNN - Đã có những quan điểm cho rằng Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là 'một việc không nên làm' và Việt Minh đã tận dụng được 'cơ may' khi xuất hiện một khoảng 'chân không chính trị' ở Việt Nam. Thực tiễn lịch sử lại chứng minh một logic khác.

Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã nổi dậy chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. Ảnh: Tư liệu
Có phải là “một việc không nên làm”?
Những ý kiến “xét lại lịch sử” cho rằng: “Ngày Độc lập của Việt Nam là 11/3/1945”. Đó là ngày Bảo Đại ký Đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương ngày 9/3/1945 và tuyên bố “trao lại độc lập cho Việt Nam”. Hoặc “việc Đảng Cộng sản giành lại chính quyền hồi năm 1945 là “việc không nên làm” vì “khi thay thế Pháp, Nhật đã có chính quyền Trần Trọng Kim rồi”.
Những người đưa ra ý kiến này đã cố tình nhầm lẫn và không nhắc đến thực chất của việc Nhật giành hoàn toàn quyền kiểm soát Đông Dương để dập tắt trước một mối nguy bị tấn công từ lực lượng Pháp ở đây khi lực lượng Đồng minh đang trong xu thế chiến thắng. Chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm trực tiếp của chính sách chiếm đóng và cai trị của phát xít Nhật trong xu thế thất bại tất yếu. Dù trong khoảng thời gian tồn tại ngắn ngủi từ ngày 17/4/1945 đến ngày 23/8/1945 cũng đã cố gắng làm được một số việc hữu ích, tuy nhiên, Chính phủ này không thể là biểu tượng quy tụ ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam.
Không có “khoảng trống quyền lực”
Nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson, năm 1991, đưa ra khái niệm “khoảng trống quyền lực” xuất hiện từ lúc Nhật thế chân Pháp tại Đông Dương nhưng lại bại trận phải đầu hàng Đồng minh. Ông nhận định: “Bằng việc tạo ra khoảng trống quyền lực, các cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã mời Việt Minh giành chính quyền”. Nhà nghiên cứu, nhà báo Mỹ Lady Borton viết rằng: “Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Việt Minh đã nhanh chóng tận dụng khoảng chân không chính trị sau sự kiện Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8/1945”. William. J. Duiker, Huỳnh Kim Khánh, Vũ Ngự Chiêu và King C. Chen cũng đề cập đến “khoảng trống chính trị”, “chân không chính trị” trước khi Nhân dân Việt Nam giành được chính quyền…
Thực tế, sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, lực lượng quân đội Nhật ở Đông Dương vẫn còn khoảng 100.000 quân với đầy đủ vũ khí, trang bị, vẫn đóng giữ tại các vị trí phòng thủ quan trọng. Cho dù đã không còn ý chí chiến đấu nhưng hai quân đoàn Nhật chỉ tuân lệnh từ cấp trên của mình và là một đối thủ mạnh với bất cứ lực lượng nào định tấn công họ bằng vũ lực. Khi Nhân dân Việt Nam nổi dậy giành chính quyền, các lực lượng chính trị vẫn tiếp tục những cố gắng của mình với mục đích có thể giành được những quyền lợi chính trị nào đó sau khi phát xít Nhật chính thức sụp đổ.
Cho đến ngày 19/8/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim vẫn tồn tại và hoạt động với cố gắng cuối cùng là tổ chức cuộc mit tinh của Tổng hội công chức tại Hà Nội chiều 17/8/1945. Nhiều đảng phái và tổ chức chính trị khác cũng nhận thức được cơ hội đang đến và gấp rút chạy đua trong nỗ lực xúc tiến những hoạt động giành địa vị chính trị cho mình trong giai đoạn “hậu chiến tranh”.
Hồ Chí Minh và Việt Minh đã thắng
Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trước đó: Xây dựng căn cứ địa, chiến khu kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích và phong trào Kháng Nhật cứu nước của quần chúng dâng cao..., chỉ trong nửa cuối tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã kịp thời nắm lấy thời cơ, đứng lên giành độc lập dân tộc.
Thắng lợi lịch sử của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh và tài nghệ lãnh đạo cách mạng, nghệ thuật tận dụng thời cơ của Đảng Cộng sản Đông Dương do lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo. Nghệ thuật đó được biểu hiện tập trung trong việc dự đoán xu thế phát triển của tình hình và xác định đúng thời điểm phát xít Nhật đầu hàng để phát động Tổng khởi nghĩa. Việc chọn đúng thời điểm để kêu gọi toàn dân Việt Nam đồng loạt đứng lên có cơ sở từ thực lực của cách mạng, từ tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” và sự nhạy bén, sáng tạo, kịp thời nhận thức tình hình và tận dụng thời cơ.
Cho dù có những khác biệt trong đánh giá về nguyên nhân và bản chất của Cách mạng tháng Tám dưới nhãn quan chính trị khác nhau, các sử gia nước ngoài không thể phủ nhận nguồn sức mạnh dân tộc đã được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương phát huy đến mức cao nhất. Đây chính là động lực làm nên thắng lợi của cách mạng chứ không phải từ bất cứ nguyên nhân bên ngoài nào.
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng: Để có được cuộc Tổng khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền trọn vẹn, không thể không nhấn mạnh vai trò của người lãnh đạo xuất sắc: Hồ Chí Minh. Một học giả đã bình luận về vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc cách mạng này: “Trong khi những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa khác bằng lòng ở lại nam Trung Quốc và đợi đến khi quân Nhật bị quân Đồng minh đánh bại, ông Hồ và các đồng sự của ông mới chứng tỏ khả năng có thể đối phó với thách thức và đặt cả thế giới trước sự đã rồi” [*].
Bà Lady Borton cũng cho rằng: Hồ Chí Minh là người cách mạng Việt Nam nhận được thông tin sớm nhất về việc quân Nhật đầu hàng Đồng minh. Hồ Chí Minh nhận tin này qua radio và ông đã hành động rất kịp thời.
Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, Nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều hy sinh để đạt đến mục đích cuối cùng. Họ đã đón đúng và tận dụng triệt để thời cơ lịch sử ngàn năm có một. Với lực lượng đông đảo được tập hợp và rèn luyện đấu tranh trong tổ chức Việt Minh, với một lãnh tụ dẫn đường xuất sắc, Nhân dân Việt Nam đã đứng lên tự giải phóng mình chứ không hề ngồi yên trông mong, chờ đợi một “khoảng trống quyền lực” hay một khoảng “chân không chính trị” nào.
Và như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong lời Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
[*] W.Duiker (2000): Ho Chi Minh - a life, Hyperion, New York, bản dịch của Phòng Phiên dịch Bộ Ngoại giao, tr. 332