Liên kết sản xuất rau an toàn - giải bài toán 'được mùa, mất giá'
Trong bối cảnh nông sản Việt Nam thường xuyên đối mặt với tình trạng 'được mùa, mất giá', việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ đang trở thành xu thế tất yếu để bảo đảm đầu ra ổn định, nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập cho nông dân.
Tại Hà Nội, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã chủ động phối hợp với các địa phương, hợp tác xã và doanh nghiệp triển khai mô hình sản xuất rau an toàn theo chuỗi giá trị, từ khâu trồng trọt đến tiêu thụ, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội.

Hợp tác xã Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp Văn Đức (xã Bát Tràng) là một trong những hợp tác xã đẩy mạnh liên kết sản xuất rau an toàn. Ảnh: Đỗ Tâm
Chuỗi liên kết nâng cao giá trị rau an toàn
Trước đây, nông dân thường sản xuất manh mún, mạnh ai nấy làm, thiếu thông tin thị trường, nên dễ rơi vào cảnh dư thừa hàng hóa, giá sụt giảm... Nhận thấy hạn chế đó, Hà Nội đã đẩy mạnh việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, lấy chuỗi giá trị rau an toàn làm trọng tâm để nâng cao chất lượng, kiểm soát đầu ra và phát triển thương hiệu nông sản Thủ đô.
Theo định hướng này, các hợp tác xã không chỉ là nơi tập hợp nông dân sản xuất, mà còn đóng vai trò cầu nối giữa người trồng, doanh nghiệp, người tiêu dùng. Việc liên kết này giúp kiểm soát toàn bộ quy trình, bảo đảm rau được trồng, thu hoạch, bảo quản và phân phối theo tiêu chuẩn an toàn, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Nhắc đến mô hình rau an toàn Hà Nội, không thể không nói đến Hợp tác xã Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp Văn Đức (xã Bát Tràng) là một trong những hợp tác xã đẩy mạnh liên kết sản xuất rau an toàn.

Các hợp tác xã rau an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội đẩy mạnh liên kết tiêu thụ sản phẩm. Ảnh: Hương Giang
Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp Văn Đức Nguyễn Văn Minh cho biết, Văn Đức có hơn 1.000 hộ nông dân tham gia với tổng diện tích khoảng 250ha, sản lượng hằng năm đạt hơn 30.000 tấn rau, củ, quả các loại. Từ nhiều năm nay, đơn vị chủ động áp dụng quy trình sản xuất rau an toàn nghiêm ngặt, giảm tối đa việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, ưu tiên phân bón hữu cơ và vi sinh, góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe người tiêu dùng.
Hợp tác xã đã xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ ổn định với nhiều hệ thống phân phối hiện đại, như: Aeon, MM Mega Market, BigC và các công ty cung cấp thực phẩm, bếp ăn tập thể. Nhờ đó, mỗi năm Văn Đức cung cấp ra thị trường từ 2.000 đến 3.000 tấn rau an toàn, trong đó có từ 300 đến 500 tấn được xuất khẩu sang Đài Loan và Hàn Quốc với giá cao hơn trong nước khoảng 20%.
Thành công này không chỉ khẳng định thương hiệu “Rau Văn Đức”, mà còn minh chứng cho hướng đi đúng đắn của mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị. Khi sản xuất được tổ chức bài bản, tiêu thụ gắn với hợp đồng dài hạn, nông dân yên tâm đầu tư, năng suất và chất lượng đều tăng lên; môi trường canh tác và đời sống người dân được cải thiện rõ rệt.

Hợp tác xã Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà (xã Hồng Vân) minh chứng cho hiệu quả của việc sản xuất rau an toàn theo chuỗi. Ảnh: Đỗ Tâm
Tương tự, mô hình Hợp tác xã Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà (xã Hồng Vân) cũng minh chứng cho hiệu quả của việc sản xuất rau an toàn theo chuỗi. Với diện tích 1,15ha trồng rau ứng dụng công nghệ cao, đơn vị đã đầu tư quy trình sản xuất khép kín, liên kết chặt chẽ với các nhóm trồng rau trong vùng để tạo ra vùng nguyên liệu ổn định, đồng đều về chất lượng.
Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà Bùi Thị Thanh Hà chia sẻ: “Sản xuất theo chuỗi giúp chúng tôi kiểm soát được quy trình từ giống, đất, nước, phân bón đến khâu thu hoạch, bảo quản. Nhờ đó, sản phẩm bảo đảm an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn của các siêu thị và doanh nghiệp lớn".

Sản phẩm rau an toàn Hà Nội có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng ổn định, được người tiêu dùng tin tưởng hơn. Ảnh: Hương Giang
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội Lưu Thị Hằng cho biết, để bảo đảm chất lượng rau an toàn theo chuỗi, thời gian qua Chi cục đã phối hợp với các địa phương xây dựng vùng sản xuất áp dụng mô hình kiểm tra cộng đồng PGS (Participatory Guarantee System). Đây là hệ thống chứng nhận do chính người dân tham gia giám sát, kiểm tra chéo giữa các hộ, bảo đảm tính minh bạch, tiết kiệm chi phí.
Nhờ mô hình này, sản phẩm rau an toàn Hà Nội có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng ổn định, được người tiêu dùng tin tưởng hơn. Thực tế cho thấy, giá bán rau an toàn theo chuỗi cao hơn so với rau thông thường từ 1.000 đến 2.000 đồng/kg, giá trị sản xuất tại các vùng áp dụng mô hình tăng 10-20%.

Rau an toàn Văn Đức (xã Bát Tràng) bảo đảm chất lượng. Ảnh: Trung Nguyên
Tiếp tục phát triển chuỗi giá trị rau an toàn
Để phát huy hiệu quả chuỗi liên kết rau an toàn, các hợp tác xã đề nghị các ngành chức năng tham mưu thành phố tiếp tục hỗ trợ các chủ thể liên kết chi phí chứng nhận, bảo hộ nhãn hiệu, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kiểm nghiệm, đăng ký mã số mã vạch, dịch vụ tư vấn về phát triển sản phẩm; xây dựng kế hoạch kinh doanh, kết nối tiêu thụ sản phẩm; đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực tổ chức sản xuất theo hợp đồng, năng lực tiếp cận hệ thống kênh phân phối hiện đại cho các hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất.
Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương, để phát huy hiệu quả của mô hình, các đơn vị của Sở tiếp tục phối hợp với các trạm dịch vụ nông nghiệp tại địa phương tập huấn, hướng dẫn nông dân quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP), cách ghi chép hồ sơ sản xuất, quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Mục tiêu không chỉ là tăng năng suất, mà còn xây dựng thói quen canh tác bền vững, nâng cao ý thức của nông dân về chất lượng và uy tín sản phẩm.

Mô hình liên kết sản xuất rau an toàn theo chuỗi giá trị không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn tạo bước chuyển biến căn bản trong tư duy sản xuất của nông dân. Ảnh: Tùng Nguyễn
Song song, ngành Nông nghiệp cũng đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ, triển lãm để quảng bá, kết nối tiêu thụ sản phẩm rau an toàn tới người tiêu dùng... Tuy nhiên, các doanh nghiệp, hợp tác xã cần đa dạng kênh tuyên truyền về rau an toàn, đưa sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng thông qua các bài viết, video clip, livestream, Facebook, Google, Youtube...











